Bé đã sẵn sàng ăn dặm khi có thể giữ đầu thẳng và tự ngồi được, biết nhận thức ăn từ thìa, bày tỏ sự thích thú với món ăn...
Bé 6 tháng tuổi, đã đến lúc cần ăn dặm nhưng làm thế nào để biết bé sẵn sàng học làm người lớn chưa? Bác sĩ Komarovskiy E.O - chuyên gia hàng đầu về nhi khoa tại Ukraina chia sẻ một số dấu hiệu giúp bạn nhận biết có nên bắt đầu cho con ăn dặm hay không:
Ăn dặm là gì? Khi chào đời, thức ăn chính của bé là sữa mẹ. Nếu sữa mẹ không đủ, cần bổ sung thứ giống với sữa mẹ nhất - sữa công thức. Việc bổ sung này khác với cho ăn dặm, khi thức ăn chính (sữa mẹ, sữa công thức) được thay thế bằng những thức ăn khác, để bé dần làm quen với lối sống người lớn.
Việc cho bé ăn dặm đã trở nên phức tạp vì trong hai thập kỷ gần đây, kỹ thuật ăn dặm thay đổi rất nhiều. Trước kia, khi cho bé ăn bổ sung, người ta chủ yếu dùng sữa bò. Rõ ràng là sữa bò, kể cả sữa chất lượng tốt, được xử lý tốt, vẫn không chứa đủ lượng vitamin và các vi chất cần thiết.
Vì vậy, thời đó người ta khuyến cáo bổ sung cho trẻ nhỏ từ độ tuổi 3 tháng các loại nước rau, nước táo, lòng đỏ trứng. Theo quan điểm hiện đại, nếu mẹ đủ sữa cho con bú và mẹ có chế độ dinh dưỡng tốt thì trước 6 tháng bé không cần thêm gì. Cũng áp dụng nguyên tắc này cho trường hợp nuôi con bằng sữa công thức.
Ảnh minh họa: Babycenter.com.my.
|
6 dấu hiệu bé đã sẵn sàng để ăn dặm:
Cần hiểu rằng 6 tháng tuổi không phải tiêu chuẩn duy nhất để bắt đầu cho bé ăn dặm, cần có thêm các điều kiện sau:
- Cân nặng tăng gấp đôi so với khi sinh.
- Bé biết giữ đầu thẳng và có thể tự ngồi.
- Biết đưa môi dưới về phía trước để nhận thức ăn từ thìa.
- Biết ngoảnh đầu đi nơi khác khi không muốn ăn món nào đó.
- Lưỡi không còn phản xạ tự động đẩy vật lạ (cho vật gì vào mồm bé cũng đẩy ra, trừ núm vú).
- Bé thể hiện sự thích thú đối với thức ăn bạn đưa.
Nguyên tắc căn bản nhất trong ăn dặm là tăng đột ngột hoạt động thể chất.
Thực phẩm lỏng cung cấp ít năng lượng hơn thực phẩm đặc. Thực phẩm càng đặc càng cung cấp nhiều năng lượng. 100 g cháo đặc cung cấp nhiều năng lượng hơn so với 100 g sữa lỏng.
Sớm hay muộn, mẹ sẽ nhận thấy hoạt động thể chất của bé tăng đột ngột. Trước đó bé nằm yên, chỉ ngọ nguậy chân tay, chơi đùa với các đồ chơi được treo trước mặt. Rồi đột nhiên, trong vòng 2 tuần, bé bắt đầu lật người, trườn bò, tìm cách đứng dậy, bé hoạt động nhiều hơn trước rất nhiều. Chính sự gia tăng đột biến các hoạt động thể chất này là điều kiện quan trọng nhất cho việc ăn dặm. Đó là tín hiệu cho thấy lúc này chỉ nuôi bé bằng thực phẩm lỏng sẽ không đủ.
4 nguyên tắc cho bé ăn dặm lần đầu:
- Không vội vàng, đừng học theo kinh nghiệm của người quen, có nghi ngờ thì nên dừng lại và chờ đợi.
- Đừng ham chạy theo số lượng.
- Không được ép bé ăn.
- Không cần sự đa dạng.
Nếu bé 10 tháng tuổi vẫn không thích ăn dặm, không thể thay thế hoàn toàn một bữa ăn dặm, phải làm gì?
- Hoặc thay đổi loại thức ăn dặm hoặc chờ đợi thêm, dù bạn có sợ đến đâu.
Trước hết hãy ghi nhớ các quy tắc chính khi cho bé ăn dặm:
Trước hết hãy ghi nhớ các quy tắc chính khi cho bé ăn dặm:
+ Bắt đầu ăn dặm khi bé được 6 tháng tuổi. Trước 4 tháng tuyệt đối không ăn dặm. Cũng có bác sĩ khuyến cáo bắt đầu cho ăn dặm khi 4-6 tháng tuổi nhưng cho bé ăn dặm tại thời điểm này là nhu cầu của cha mẹ, để được thấy bé giống người lớn, chứ không phải nhu cầu thực của bé.
+ Chỉ cho bé ăn thực phẩm mới khi cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh. Không thử nghiệm khi bé mọc răng, bị cảm, mệt. Cần bé khỏe và người mẹ cho con ăn dặm cũng phải thấy khỏe khoắn. Trường hợp sức khỏe bé không đảm bảo (sau tiêm chủng, người nhà hắt hơi sổ mũi, với nguy cơ ngày hôm sau bé cũng sẽ bị sổ mũi), gia đình có dự định cho những thay đổi sinh hoạt trong thời gian gần (đi du lịch, tổ chức tiệc đông người tại nhà...), tốt nhất là nên đợi thêm một tuần cho tới khi mọi sinh hoạt trở lại bình thường mới bắt đầu cho bé ăn dặm.
+ Cho bé dùng đồ ăn dặm trước khi dùng thức ăn chính: Cho bé ăn cháo sữa ngũ cốc, sau đó mới cho bú mẹ hoặc bú bình.
+ Nếu bé từ chối món ăn dặm nào đó thì không nên cố ép. Đôi khi để bé thích được mùi vị mới cha mẹ phải thử tới 10-15 lần. Ví dụ nếu bé có từ chối thịt hoặc rau thì cũng không có gì đáng sợ. Hãy thử lại sau 10-12 ngày và thử làm vài lần. Nhưng sau mỗi lần bé phun thức ăn dặm mới ra thì phải dừng trong 2 tuần.
+ Chỉ cho bé thử một loại thức ăn mỗi lần. Nếu định cho bé ăn hoa quả nghiền, không cần cho ngay cả táo, lê và mận. Chỉ được dùng một loại thực phẩm mới. Nếu nấu cháo sữa thì không nên dùng loại bột ngũ cốc 7 thành phần mà chỉ dùng loại một thành phần. Khi nào mọi chuyện ổn thỏa mới thử sang thành phần mới.
+ Chỉ bắt đầu cho bé ăn dặm 2 bữa khi đã thay thế hoàn toàn bữa thứ nhất. Chúng ta đã chọn được một món, chẳng hạn cháo sữa ngũ cốc và quyết định thay thế bữa cuối ngày. Đây là lựa chọn tốt vì cháo làm bé no lâu và sau bữa cháo tối trẻ thường ngủ ngon hơn. Nếu chưa thay thế hoàn toàn được bữa tối thì không thử nghiệm bữa sáng hay bữa trưa.
+ Khoảng cách giữa hai lần thử món ăn không dưới 5 ngày. Ví dụ ngày đầu bạn thay sữa mẹ bằng 20 g cháo sữa rồi cho bé bú thêm. Những ngày tiếp theo dùng 40, 60, 80, 100 g cháo, tăng dần trong vòng 5-7 ngày thì thay thế hoàn toàn bữa sữa mẹ.
Điều quan trọng là ăn dặm phải được thực hiện một cách tự nguyện, an toàn, khiến cả bé và cha mẹ hài lòng. Nếu bé 10 tháng chỉ thích sữa mẹ và từ chối tất cả những thứ khác, vấn đề "tôi thích món này, tôi không thích món kia" có thể được giải quyết rất dễ dàng trong vòng 6 giờ nhờ cảm giác đói. Nếu bạn không cho bé thứ này thì bé sẽ muốn thứ bạn yêu cầu bé ăn. Quan trọng là phải an toàn.
Có cần thêm muối và đường vào đồ ăn của bé không?
- Hoàn toàn không cần thêm đường. Riêng về muối, mọi người hay nhầm rằng trẻ em tuyệt đối không được dùng muối. Trẻ em cũng cần muối, nhất là nếu trời nóng và bé ra mồ hôi. Nhưng nhu cầu muối của bé thấp hơn nhiều so với của người lớn. Như vậy có thể thêm muối vào thức ăn của trẻ nhưng với cha mẹ món này khi nếm phải cho cảm giác nhạt, chưa đủ độ mặn.
Nên bắt đầu cho bé ăn dặm bằng thức ăn gì?
- Không có quy tắc tuyệt đối. Các bác sĩ chưa thống nhất hoàn toàn về vấn đề này nhưng tất cả đều nhất trí là không nên bắt đầu bằng thịt. Phần lớn bác sĩ hiện nay cho rằng nên bắt đầu hoặc bằng các món rau hoặc bằng cháo sữa ngũ cốc. Có những người ủng hộ cách thứ ba là dùng pho mát làm từ sữa không béo.
- Dùng đồ ăn sẵn trong chai tốt hơn hay đồ ăn tự nấu tốt hơn?
- Xã hội văn minh phấn đấu để người mẹ không phải bỏ hết thời gian chuẩn bị thức ăn, để người mẹ có thời gian chăm sóc bản thân và các thành viên khác của gia đình. Nếu xét về lợi ích cho cả gia đình thì bạn hoàn toàn có thể nuôi bé bằng thức ăn sẵn chất lượng cao, kết hợp với đồ ăn tự nấu.
Cả hai phương án đều được. Nếu bố kiếm đủ tiền để mua đồ ăn sẵn thì mẹ sẽ dành thời gian nhiều hơn cho bố.
Bác sĩ Trần Thu Thủy (biên dịch)
Tác hại của việc cho bé ăn dặm sớm và phương pháp cho bé ăn dặm đúng các
Không phải cho bé ăn dặm sớm đã là điều tốt, có khi còn có hại cho sức khỏe và sự phát triển của bé. Hãy cùng tìm hiểu khi nào thì nên cho bé ăn dặm và cách cho bé ăn dặm đúng phương pháp nhé.
1/ Những nguy cơ khi ăn dặm sớm:
Vì nhiều lý do, không ít người mẹ cho con ăn bột sớm, thường từ 3,5 đến trước 4 tháng tuổi. Có người còn nhầm tưởng rằng, ăn bột sớm sẽ khiến bé mau lớn, cứng cáp, bụ bẫm. Một số mẹ không chọn mua bột ăn dặm bán sẵn mà tự dùng nước cháo, nước cơm cho con tập ăn với suy nghĩ chúng bổ dưỡng, lỏng nên dễ tiêu hóa.
Các bác sĩ nhi khoa khuyến cáo, chỉ nên bắt đầu cho bé ăn dặm khi bé được 4-6 tháng tuổi. Tốt nhất, nên hỏi trực tiếp bác sĩ về thời điểm ăn dặm của con. Một số bé sinh non được khuyên nên bắt đầu ăn dặm muộn hơn.
Nếu cho ăn dặm sớm (trước 4 tháng tuổi) dù là ăn bột hay nước cơm, nước cháo, bé rất dễ bị tiêu chảy, nôn trớ, đi ngoài phân sống. Nguyên nhân là do từ khi chào đời, bé chỉ quen tiêu hóa sữa. Ăn dặm là “thức ăn lạ” nếu làm quen quá sớm khiến hệ tiêu hóa còn nơn nớt của bé quá tải, gây rối loạn tiêu hóa.
Bé ăn dặm sớm tuy bụ bẫm nhưng có thể suy dinh dưỡng. Ăn bột làm bé no bụng, gây giảm cảm giác thèm bú, dẫn tới kém bú. Trong khi bột (phần lớn là tinh bột và một số chất dinh dưỡng khác) không thể đáp ứng nguồn dinh dưỡng dồi dào cho sự phát triển của bé như sữa. Nếu bú kém, ăn bột nhiều dễ gây hiện tượng bụ bẫm, nhưng thực ra bé lại suy dinh dưỡng, còi xương do thiếu chất. Ăn nhiều bột còn gây tình trạng loạn chuyển hóa – tăng đào thải canxi ra nước tiểu, gây còi xương.
Một số bé cơ địa dễ dị ứng, nếu cho ăn dặm sớm còn làm tăng nguy cơ dị ứng ở bé. Kèm theo dị ứng là đau bụng và tăng tỷ lệ bị bệnh chàm.
2/ Những dấu hiệu cho biết bé muốn ăn dặm:
• Sau khi bú no sữa, em bé của bạn vẫn còn khóc và đòi bú thêm.
• Em bé có vẻ không muốn đợi đến lần bú kế tiếp và trở nên cáu kỉnh hoặc mút tay.
• Trước đây em bé của bạn ngủ suốt đêm, bây giờ thì bé lại thức dậy đòi bú.
• Những giấc ngủ ban ngày cũng trở nên thất thường, ngủ không yên hoặc thức dậy sớm sau khi ngủ chợp mắt.
• Em bé của bạn trông rất hứng khởi khi bạn ăn, và dường như muốn đưa tay với lấy thức ăn mà bạn đang cầm.
Bạn cũng nên lưu ý rằng tuổi sớm nhất được khuyến cáo cho việc ăn dặm là 17 tuần.
3/ Tạo thói quen ăm dặm cho bé:
Chuyển sang giai đoạn ăn dặm là một mốc thời gian quan trọng cho cả bạn và bé. Do vậy, không có gì là bất ngờ khi một số bà mẹ có thể cảm thấy không chắc chắn về việc khi nào cho bé ăn và cho bé ăn gì. Tạo lập thói quen cho ăn vào những thời gian nhất định trong ngày sẽ giúp bé quen với chế độ ăn mới khi ăn dặm.
Không có một quy tắc nhanh chóng và dễ dàng nào khi bắt đầu việc cho ăn dặm, nhưng tốt hơn cả là bắt đầu một cách từ từ. Bạn hãy thử bắt đầu bằng một bữa ăn dặm trong một ngày để xem mọi việc thế nào. Dần dần chuyển sang ăn hai hoặc ba bữa ăn dặm một ngày. Bạn có thể thấy rằng bé càng ăn nhiều thức ăn dặm, bé càng bú ít sữa. Tuy nhiên, sữa vẫn rất quan trọng và nó vẫn nên tiếp tục là một phần trong chế độ ăn của bé cho đến khi bé ít nhất là 12 tháng tuổi.
Các nhà nghiên cứu về nhi khoa cho rằng: thời điểm tối ưu để cho trẻ ăn dặm là lúc 4-6 tháng, khi chức năng tiêu hóa của ruột và khả năng của thận đã khá hoàn thiện, sẵn sàng cho việc ăn uống ngoài sữa. Mặt khác, nhu cầu các chất khoáng như: sắt, kẽm bắt đầu có thể bị thiếu hụt từ khoảng 4 tháng tuổi. Vì vậy, khi bé tròn 4 tháng tuổi, mẹ cần theo dõi sự tăng cân của bé sát sao hơn. Bình thường đến thời điểm này bé sẽ tăng khoảng 150g-200g mỗi tuần. Nếu thấy bé có khuynh hướng hơi chậm phát triển thì có thể tập cho ăn dặm ngay. Nhưng nếu chỉ với sữa mẹ mà bé vẫn tăng nhanh chứng tỏ sữa mẹ vẫn đủ dư, có thể dời thời điểm cho ăn lại đến tháng thứ 5 hoặc thứ 6. Lúc này, nếu bạn thấy trẻ dòm miệng mọi ngưòi khi ăn uống, đòi thức ăn thì có thể thử cho bé uống chút nước súp, nước cháo hoặc trái cây,… từ muỗng. Đây cũng là thời gian tập cho bé ăn dễ dàng nhất.
Trẻ từ 7-8 tháng tuổi trở đi sẽ khó khăn trong việc tập ăn dặm, do đã quá quen với việc bú sữa. Bé sẽ khó chấp nhận các thực phẩm có mùi vị và độ đặc khác sữa, không quen với cách ăn từ muỗng,…
Mặt khác, đặc biệt là trong hoàn cảnh của nước ta, việc cho trẻ ăn dặm sớm có nguy cơ trẻ bị cho ăn các loại thức ăn nghèo năng lượng, không đủ chất, dễ bị tiêu chảy, rối loạn tiêu hóa nên hết sức tránh cho trẻ ăn dặm trước 4 tháng tuổi.
Dưới đây là gợi ý của bác sĩ về chế độ ăn bột/cháo của trẻ trong 2 năm đầu (kết hợp với các bữa phụ +sữa mẹ hoặc sữa công thức):
– 6-7 tháng: 1 bữa bột lỏng khoảng 100 – 200 ml
– 8-9 tháng: 2 bữa bột đặc 200 ml.
– 10-12 tháng tuổi: 3 bữa bột đặc 200 ml – 250 ml
– 12 – 24 tháng: 3 bữa cháo 250 – 300 ml
– 24 tháng trở đi có thể ăn cơm cùng gia đình
Với mỗi bé, tùy thể chất, khẩu vị có thể thời gian và số bữa khác đi.
4/ Tác hại không đáng có khi cho ăn dặm sớm:
Với mong muốn con có đủ chất để phát triển, nhiều cha mẹ đã “nỗ lực” chế biến thức ăn cho bé ăn từ lúc trẻ mới được 3-4 tháng tuổi. Đó là một sai lầm của họ và hậu quả là có một số trẻ phải nhập viện vì táo bón hoặc tiêu chảy…
Mang con 5 tháng tuổi đến khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Nhi Đồng 1, TP HCM, khám, chị Xuân nhà ở quận 11 cho hay sữa mẹ không có, sợ sữa công thức không đủ chất, chị mua thuốc ăn về xay nhuyễn đút cho con. Một tuần sau khi được mẹ bổ sung dinh dưỡng, bé không thể đi tiêu được.
Con gái 4 tháng tuổi của chị Thủy ở quận Tân Phú cũng được đưa đến bệnh viện vì bị tiêu chảy gần một tuần không khỏi sau khi được cho ăn dặm.
“Tôi cho cháu ăn khoai tây, cà rốt, cải xanh được xay rất nhuyễn và chế biến rất kỹ nhưng không hiểu sao lại như vậy”, phụ huynh này nói.
Tại Trung tâm Dinh dưỡng TP HCM, nhiều phụ huynh đưa con đến khám hoặc gọi điện nhờ tư vấn “không hiểu sao thức ăn chế biến hợp vệ sinh nhưng các bé được cho ăn dặm lại bị tiêu chảy hoặc nôn trớ”.
Bác sĩ Hoàng Lê Phúc, Trưởng khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Nhi Đồng 1, cho biết, ông thường xuyên tiếp nhận những trường hợp tương tự và điểm chung của các bé là đều được người lớn cho ăn dặm sớm.
“Hầu hết phụ huynh đều có tâm lý muốn con cứng cáp, sợ con thiếu chất nên cho ăn dặm mà không biết hệ tiêu hóa của bé chưa phát triển hoàn chỉnh để tiếp nhận thức ăn. Điều này dẫn đến việc bé bị rối loạn tiêu hóa”, bác sĩ Phúc nói.
Cũng theo bác sĩ Phúc, khi dinh dưỡng chưa thể được dung nạp, các bé thường có biểu hiện trớ, nôn, tiêu chảy hoặc táo bón. Một số bé có biểu hiện quấy khóc từng cơn có thể do cơn đau bụng gây nên.
“Thời điểm ăn dặm phù hợp cho trẻ là khi các bé được 6 tháng tuổi. Lúc này, hệ tiêu hóa của bé đã đủ chức năng tiếp nhận thức ăn. Các biểu hiện để biết bé đã sẵn sàng cho việc ăn dặm là lưỡi của bé đẩy thức ăn ra, bé biết phản xạ xoay đầu theo hướng của thìa”, bác sĩ Phúc nói.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Lâm, Phó Viện Dinh dưỡng khuyên, khi bắt đầu cho trẻ ăn dặm, phụ huynh nên cho bé ăn bột, sau đó là các loại thịt, cá, rau xanh xay nhuyễn trộn với vài giọt dầu thực vật.
“Không nên cho trẻ ăn quá nhiều trong một lần mà tăng dần từ 50, 80 ml đến 100 ml dung dịch thức ăn dặm trong mỗi lần ăn”, bà Lâm nói.
Các chuyên gia dinh dưỡng cũng khuyên, khi cho trẻ ăn dặm, phụ huynh nên theo dõi các phản ứng của bé để phòng hiện tượng dị ứng thức ăn; theo dõi phân để biết bé có bị rối loạn tiêu hóa hay không, từ đó cân chỉnh lại các thành phần dinh dưỡng phù hợp.
Khi thấy trẻ có biểu hiện rối loạn tiêu hóa, cần đưa bé đến bệnh viện để được chữa trị và tư vấn. Không nên liên tục đổi sữa vì có thể làm trẻ bị rối loạn tiêu hóa nặng hơn.
Việc cho bé ăn dặm sớm hay muộn ảnh hướng khá nhiều đến sức khỏe và sự phát triển của bé.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét