ThS. Nguyễn Thị Tuyết Ngân
Từ xưa tới nay, ăn thuộc loại nhu cầu được chú trọng hàng
đầu. Ông bà ta quan niệm: “Có thực mới vực được đạo”. Ăn uống không
đơn thuần là việc cung cấp năng lượng để duy trì sự sống mà là một
thành tố văn hoá quan trọng - văn hoá ẩm thực. Tuỳ theo điều kiện sinh
sống mà mỗi vùng miền có những nét đặc thù văn hoá ẩm thực riêng biệt
của mình.
Đối với các dân tộc trồng
trọt định cư ở Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng thì cơ cấu
bữa ăn là cơm-rau-cá.
Trong đó cơm là sản phẩm của văn hoá nông nghiệp lúa nước, cơm-rau phản
ánh một cơ cấu ăn thiên về thực vật, và cả ba đều là sản phẩm của vùng sông
nước Đông Nam Á [Trần Ngọc Thêm 1996/2004: 343-349]. Điều kiện địa lý vùng
này đã cung cấp một nguồn thực phẩm thiên nhiên tôm cá vô cùng phong
phú, phần sử dụng ngay, phần để dành, nên đã phát hiện ra cách muối
cá làm mắm. Mắm ở đây thông dụng tới mức có một số nhà nghiên cứu
Đông Nam Á đã mô hình hoá bản sắc ẩm thực khu vực này thành: cơm-rau-mắm-ớt.
Cơ cấu này có thể nói là phản
ánh khá đúng tập tục ẩm thực của vùng Nam Bộ Việt Nam. Ẩm thực Việt Nam
thường được nhắc đến kèm với nước
mắm (= mắm) như một đặc
trưng đương nhiên. Tuy nhiên, khi nghiên cứu văn hoá Nam Bộ, ta thấy nhận
định này chưa hoàn toàn chính xác, bởi lẽ trong khi người Bắc Bộ chỉ
dùng được nước mắm, còn các loại mắm khác hầu như không dám đụng
đũa, thì người Nam Bộ không chì dùng nước mắm, mà ăn đủ loại mắm vô cùng
đa dạng và phong phú. Có thể nói rằng trong ẩm thực Nam Bộ, mắm tạo thành
một tiểu thành tố văn hoá điển hình nhất.
Bài viết này trình bày về
văn hoá mắm Nam Bộ theo một trong các mô hình cấu trúc hiện tượng văn hóa do
Trần Ngọc Thêm đề xuất [1998; 2005]: Từ văn hoá nhận thức về mắm chuyển
sang tìm hiểu về văn hoá tận dụng mắm, văn hoá đối phó với mắm, văn
hoá sùng bái mắm, và văn hoá lưu luyến mắm.
1. Văn hoá nhận thức về Mắm
1.1. Khái niệm mắm
Mắm có nhiều loại. Mỗi
địa phương, mỗi thương hiệu mắm lại có các cách gia giảm khác nhau.
“Mắm có tảng nền từ thuỷ
sản, để nguyên con hay giã nhỏ, muối mặn và để một quá trình lên men
bằng gạo thính, có khi cho thêm ít rượu để “thơm” và thúc đẩy quá
trình lên men” [Trần Quốc Vượng 2000: 416]. Bỏ qua những chi tiết khu
biệt địa phương, từ điển tiếng Việt định nghĩa “mắm là thức ăn làm
bằng tôm, cá sống ướp với muối và để lâu ngày cho ngấu” [Hoàng Phê
1992: 613].
Hai định nghĩa trên đã nêu
được ba đặc trưng cơ bản nhất của mắm, đó là: nguyên liệu thuỷ sản -
ướp muối - và thời gian lâu ngày[1]. Từ ba đặc
trưng này, ta có thể định nghĩa: mắm
là thức ăn chế biến từ thuỷ sản ướp muối để lâu ngày cho lên men.
Do thuộc loại lên men, nên mắm
ăn dễ tiêu, thích hợp với khí hậu nhiệt đới nóng bức. Chính vì thế,
“nước mắm và các loại mắm là sáng tạo đặc thù của cư dân Việt Nam và Đông Nam
Á” [Trần Ngọc Thêm 1998][2].
1.2. Mắm trong không gian
Ở Đông Nam Á, mắm rất phổ
biến. Lào, Thái có mắm
nhái, mắm ngoé. Ở Thái Lan
mắm cá gọi là pla-raa,
nước mắm gọi là nam-pla.
Một trong những món ăn được người Thái ưa thích nhất là nậm-pia (một thứ mắm ruốc cá). Ở Lào mắm
gọi là pa-dek [Tungson2009]. Người Khmer có mắm bò-ót (làm từ tép), mắm pra-hoc (làm từ cá với cơm nguội). Món ăn
truyền thống đặc trưng nhất của người Miến là nga-pi (cá ép, cá mắm...). Ở Indonesia bả
cá gọi làtrasi, nước mắm gọi là kecap
ikan. Nước mắm ở
Malaysia gọi là budu, ở
Philippines gọi là patis...
[Phan Thị Thanh Quế 2007].
Ở Việt Nam, từ Bắc đến Nam
đều dùng mắm. Trong Từ điển
Tiếng Việt do Hoàng Phê
chủ biên [1992] có 7 mục từ liên quan đến mắm: mắm, mắm cái, mắm kem, mắm
lóc, mắm muối, mắm nêm, mắm tôm. Trong các từ điển văn hoá của
Việt Nam thì mắm là mục từ không thể thiếu. Nhưng do điều kiện địa
hình và khí hậu khác nhau, mỗi vùng có những đặc điểm rất khác nhau
trong sử dụng mắm.
Sự ra đời của mắm như một loại
văn hoá ẩm thực đặc biệt đòi hỏi tối thiểu hai điều kiện: (1) địa hình sông
nước cung cấp thủy sản ở mức dư thừa và (2) khí hậu nắng nóng quanh năm (có
nhiệt độ cao) để mắm “chín” và ngăn chặn không cho giòi bọ xâm hại.
Bắc Bộ là
vùng đồng bằng rộng lớn, người dân làm ruộng và quay lưng lại với biển, khí hậu
có mùa lạnh (đáp ứng một phần điều kiện 1, điều kiện 2 ở mức yếu) nên chủ
yếu chỉ dùng mắm đồng dưới dạng nước
mắm. Với phần lớn người dân Bắc Bộ, mắm và nước
mắm là hai khái niệm gần như
đồng nghĩa. Vùng Bắc Trung
Bộ thì sông ít và
dốc, bờ biển cũng không sâu, không thuận lợi lắm cho việc đánh bắt
thuỷ sản, khí hậu cũng có mùa lạnh như Bắc Bộ, nên chủ yếu dùng mắm
biển dưới dạng nước mắm,
mắm xác đối với vùng này là một món đặc sản (vd như mónmắm tôm
chua Huế)[3].
Chỉ có từ vùng Nam Trung bộ
trở vào mới đánh bắt được nhiều cá và có khí hậu nóng ấm quanh năm, cho nên
các trung tâm làm mắm lớn của Việt Nam đều nằm ở hai vùng này.
Vùng Nam Trung Bộ có khí hậu nóng ấm quanh năm, địa
hình vươn ra biển trong khi đất liền thì hẹp và núi chiếm phần lớn, cho nên
mắm vùng này chủ yếu làm từ nguyên liệu hải sản (với các trung tâm
nổi tiếng như Nha Trang, Phan Thiết).
Riêng vùng Nam Bộ đáp ứng được ở mức độ cao nhất hai
điều kiện: (1) Có khí hậu nắng nóng quanh năm và (2) Có địa hình cực kỳ
thuận lợi, vừa có sông nước chằng chịt cung cấp nguồn thủy sản nước ngọt
dồi dào (hàng năm vào mùa nước lũ, các loại cá từ Biển Hồ tràn về,
người dân cất vó, thả lưới, giăng câu, tung chài, xúc vợt... để bắt
cá; cá thu được nhiều ăn không hết, số còn lại phải phơi khô, làm mắm để
dành), lại vừa có các cửa sông rộng, hai mặt giáp biển tạo thành ngư
trường đánh bắt cá lớn nhất nước, cung cấp nguồn thủy sản nước mặn vô cùng
phong phú. Do vậy Nam Bộ là nơi dùng mắm phổ biến nhất - ở đây có đủ cả mắm
biển lẫn mắm đồng, mắm xác lẫn mắm nước.
So sánh cách thức sử dụng
mắm ở các vùng miền Việt Nam, ta có bảng sau:
Vùng miền
Loại mắm
|
Bắc và Bắc Trung Bộ
|
Nam Trung Bộ
|
NAM BỘ
|
Mắm đồng
|
+
|
-
|
+
|
Mắm biển
|
-
|
+
|
+
|
Mắm nước
|
+
|
+
|
+
|
Mắm xác
|
-
|
(+)
|
+
|
Nam Bộ có thể xem như “thủ đô”
của mắm: đây là nơi có nhiều
cơ sở sản xuất mắm nổi tiếng, địa phương nào cũng chế biến mắm.
Mỗi vùng dùng các loại nguyên liệu khác nhau và có những bí quyết
chế biến, gia giảm khác nhau, tạo ra vô số các biến dạng phong phú,
được xem là đặc sản của địa phương: mắm
nục, mắm thái, mắm Châu Đốc, mắm ruột cá Đồng tháp Mười, Mắm ruốc
Kiên Giang, mắm ba khía Cà Mau, mắm còng Long An, mắm tôm chà Gò Công....
Khó có thể thống kê hết được có bao nhiêu loại mắm. Chỉ riêng vùng
Châu Đốc (An Giang) đã có tới 25 loại mắm được chế biến bằng các
phương pháp cổ truyền từ hàng trăm năm nay. Với tư cách là đặc sản
vùng, từ lâu mắm các địa phương Nam Bộ đã đi vào tục ngữ, ca dao: Mắm Châu Đốc, dốc
Nam Vang. Muốn ăn bông
súngmắm kho, Thì vô Đồng
Tháp ăn cho bõ thèm. Con cá cơm thơm hơn con cá bẹ, Bởi
mê nước mắm Hòn, em bỏ mẹ
theo anh...
1.3. Phân loại mắm
Mắm đa dạng phong phú cả
về nguyên liệu lẫn cách thức chế biến, nên được dân gian phân loại theo
nhiều cách.
1.3.1. Theo nguồn gốc môi trường mắm được chia thành mắm
đồng và mắm biển. Theo nguồn gốc chất liệu, được chia thành mắm cá và mắm từ
các thủy sản khác.
Mắm đồng được
chế biến từ các nguyên liệu thuỷ sản nước ngọt đánh bắt ở sông rạch,
ruộng đồng, hồ ao, v.v. Loại mắm này rất phổ biến ở Nam Bộ, nhất là
khu vực miền Tây sông nước. Mắm
biển là các loại mắm
được chế biến từ các nguyên liệu hải sản.
Mắm cá là
loại mắm phổ biến nhất, được làm từ nguyên liệu chính là cá các
loại (cả nước ngọt lẫn nước mặn). Mắm còn
được chế biến từ các
loại thủy sản khác như: còng, ba khía, tôm, rươi,...
1.3.2. Theo hình thức thành
phẩm, mắm được chia thành mắm nước và mắm xác.
Mắm nước là
loại mắm được làm bằng cách dùng nhiều muối ướp thuỷ sản để lâu
ngày lấy nước chưng lên làm gia vị để chấm hoặc nêm thức ăn. Loại
mắm này thường được xử lý tiếp bằng cách nấu, lọc, tạo nên sản phầm cuối
cùng ở dạng nước, vd: nước
mắm cá, nước mắm sò, nước mắm cáy, nước mắm ruốc, nước mắm rươi...
Mắm xác gồm
hai loại: Mắm nguyên
dạng là loại mắm mà
sau khi chế biến, sản phẩm vẫn còn giữ nguyên hình dạng hoặc những bộ
phận cấu thành cơ thể thuỷ sản, vd: mắm
ruột, mắm lóc, mắm cá linh, mắm cá cơm,...Mắm nhuyễn là loại mắm mà sau khi chế
biến, sản phẩm hòa nhuyễn, không còn giữ hình dạng ban đầu của thủy sản,
loại mắm này có thể do nguyên liệu là những loại thủy sản quá nhỏ
hay quá lớn, hoặc dễ bị phân huỷ, hoặc được cố tình bằm, chà
nhuyễn, vd: mắm tôm, mắm
tép, mắm cá thu, mắm tôm chà...
1.3.3. Theo cách chế biến,
có thể chia thành mắm sống và mắm chín.
Người dân Nam Bộ thường gọi
các loại mắm cá là “mắm sống” và dùng ăn trực tiếp
không cần qua công đoạn nấu nướng. Thực chất, mắm này được chế biến
bằng cách muối cho lên men - đây là cách làm chín thức ăn không cần
dùng lửa mà con người đã đúc kết được qua quá trình cải tạo tự
nhiên của mình, giúp cho cơ thể có thể hấp thu trực tiếp.
Mắm chín gồm mắm chiên, mắm chưng, mắm kho
(lẩu mắm) - đây là những
cách làm mắm của người Nam Bộ thông qua chế biến bằng các nấu nướng. Mắm chiên là cách chiên mắm nguyên miếng,
nguyên con trong dầu mỡ. Mắm
chưng là cách nấu cách
thuỷ mắm nguyên miếng nguyên con, hoặc mắm đánh nhuyễn trộn chung với
thịt bằm, trứng, hoặc các gia vị. Mắm
kho là loại mắm khi nấu
cho thêm nước vào. Không chỉ mắm xác, mà mắm nước cũng có thể ăn sống và nấu
chín.
Bảng các cách phân loại mắm
TIÊU CHÍ
|
LOẠI MẮM
|
||||||||
Theo nguồn gốc
|
Môi trường
|
Mắm đồng
|
Mắm biển
|
||||||
Chất liệu
|
Mắm cá
|
Mắm từ các loại thủy sản khác
|
|||||||
Theo hình thức
sản phẩm |
Mắm nước
|
Mắm xác
|
|||||||
Mắm nguyên dạng
|
Mắm nhuyễn
|
||||||||
Theo cách chế biến
|
Mắm sống
|
Mắm chín
|
|||||||
Mắm chiên
|
Mắm chưng
|
Mắm kho (lẩu mắm)
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2. Văn hoá tận dụng mắm
Mắm được dùng rất thông
dụng và rộng rãi trong các bữa ăn của người Nam Bộ.
Mắm có thể dùng làm thức ăn: Mắm trộn cơm, mắm trộn với thực phẩm khác làm thức ăn, hoặc làm đồ chấm, gia vị nêm thức ăn. Đó là chức năng
thông dụng nhất của mắm. Người Nam Bộ từ xưa quan niệm rằng ăn nhiều
mắm, cá sẽ giúp cho cơ thể khoẻ mạnh, dẻo dai, thậm chí còn có thể
cầm cự lâu với bệnh sốt rét trước đây thường xảy ra ở miền đất còn
hoang vu này. Các nhà dinh dưỡng học cho rằng các nguyên liệu thuỷ hải
sản cung cấp nhiều chất đạm, chất béo có tác dụng ngăn ngừa các
bệnh tim mạch và giàu iốt, can xi bổ sung cho cơ thể.
Mắm chứa 3 loại đạm
và đầy đủ các acid amin, đặc biệt là các acid amin không thể thay thế, các chất
bay hơi, các chất vô cơ cần thiết và các vitamin như B1, B12, B2, PP [Phan Thị
Thanh Quế 2007]. Hơn nữa, món mắm được chế biến qua quá trình lên men
dễ tiêu hoá, phù hợp với khí hậu và thể trạng người Việt Nam. Theo
Phan Thị Yến Tuyết, “mắm giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp
nguồn đạm động vật dinh dưỡng cho người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long
vì hàm lượng đạm tố khá cao trong nước mắm, đó lại là thứ gia vị
truyền thống, hợp khẩu vị dân tộc nên hầu như trong mọi món ăn đều
có nêm nước mắm, nó có mặt trên tất cả các bàn ăn thịnh soạn cũng
như bình dân ở Đồng bằng sông Cửu Long” [1993: 72].
Người Nam Bộ cũng sử dụng
mắm để bảo quản thức
ăn, giúp thức ăn có thể để lâu. Thức ăn để trong mắm có thể giữ
lâu được chính là nhờ độ mặn của muối trong mắm. Nhưng khác với cách
muối cá thông thường, thức ăn được bảo quản theo cách này có thêm hương
vị của mắm nên mùi vị thơm ngon hơn. Ví dụ: làm dưa mắm, thịt ngâm nước mắm...
Những món này đôi khi bị một số người nhầm tưởng cũng là mắm.
Ngoài ra, người Nam Bộ còn
sử dụng nước mắm làm đồ
khử mùi vị, tăng
độ ngọt của thức ăn.
Ví dụ như cách ăn xoài
tượng chua chấm mắm đường. Trong các đám cỗ trước kia, khi tráng
miệng thường có vài ba món ngọt, nhưng mỗi món có vị ngọt riêng. Do
vậy bên cạnh đồ ngọt, trên bàn ăn người ta để một chén nước mắm ngon.
Mỗi khi ăn xong một món ngọt, khách chấm cây tăm vào chén nước mắm rồi
đưa lên miệng nhấm để đánh tan vị của món trước, rồi mới tiếp tục
thưởng thức món sau.
Một số người dùng nước
mắm bôi vào vết bỏng để hy vọng vết bỏng chóng lành.
Đây là một quan niệm sai lầm do xuất phát từ thực tế là khi bị bỏng, cần
có vật lạnh áp vào cho hạ bớt nhiệt độ (thường người ta dùng nước
lạnh xối vào), và vết bỏng cần được sát trùng (thường người ta dùng
nước muối). Một số người ít hiểu biết thấy nước mắm có cả hai đặc
tính này (mát và mặn) nên đã dùng nó bôi vào vết bỏng. Bình thường thì việc
bôi nước mắm này không có ảnh hưởng gì, nhưng nếu vết bỏng bị vỡ chảy nước
thì chất đạm động vật lên men trong mắm có thể gây nhiễm trùng rất nguy
hiểm.
Do mắm có mùi mạnh và rất
đặc trưng, nên người ta còn nghĩ ra cách tận dụng mắm để đe doạ, khủng bố, xúc phạm người khác. Đây là một số vụ việc
được báo chí đăng tải: “Đánh ghen bằng nước mắm” [Pháp Luật TP HCM
2004], “Văn phòng luật sư Hà Đăng bị tạt mắm tôm” [Nghĩa
Nhân 2002], “Dùng mắm tôm chống người thi hành công vụ” [Thanh Niên 2006], v.v.
3. Văn hoá đối phó với mắm
Đặc tính nổi bật của mắm
là mặn và nặng mùi. Do vậy mà người Việt cũng thường phải đối phó
chủ yếu với hai đặc tính này của mắm.
3.1. Đối phó với vị mặn
Cách đơn giản nhất để đối
phó với vị mặn là pha
loãng. Người ta thường pha loãng mắm bằng nước lã hoặc nước dấm
nhạt để khử bớt độ mặn của mắm. Tuy nhiên, cách này chỉ phù hợp
khi nấu vì phải đun sôi lên mới có thể dùng được.
Để làm nước chấm, người ta
thường giảm bớt độ mặn của mắm bằng cách pha thêm đường, mì chính
(bột ngọt), hoặc chanh, dấm.
Cũng có khi người ta làm
giảm độ mặn của mắm bằng cách ăn hoặc nấu mắm với các loại thực
phẩm khác như thịt cá, rau, củ, quả... Ví dụ như món lẩu mắm hiện
đại được nấu loãng ra bằng cách pha nước và thêm vào đó các loại
thịt, cá tươi, ăn kèm với các loại rau sống.
3.2. Đối phó với mùi hôi
Mắm phải gắt mùi mới ngon.
Dân gian Việt Nam có thành ngữ “gắt như mắm” để nói lên hương vị đặc
trưng của mắm. Mắm càng ngon thì càng “dậy mùi”. Tuy nhiên, khi dọn lên
bàn ăn, mùi gắt của mắm có thể gây phản cảm cho người ăn, do vậy
người ta thường phải khử bớt mùi gắt của mắm bằng nhiều cách khác
nhau. Người ta có thể cho thêm vào mắm các gia vị có mùi vị mạnh như ớt, tiêu, gừng, tỏi... để
át bớt mùi gắt. Hoặc người ta nấu loãng, đun sôi ở nơi khác, đến khi
chín mới dọn lên bàn ăn thì mùi của mắm cũng bớt đi được một phần.
Cũng do măm có mùi mạnh như
vậy, nên người ta cố gắng hạn chế, chỉ dùng nó trong bữa ăn mà thôi. Sau
khi ăn mắm xong, người ta thường phải dùng mọi cách để nhanh chóng khử
đi mùi của mắm như rửa
tay, lau miệng, uống nước, đánh răng,... Một nguyên tắc quan trọng
của người Việt Nam là tuyệt đối tránh không để mắm dây dính vào quần
áo, đồ đạc.
3.3. Đối phó với sự đơn điệu
Mắm chỉ là cách muối thuỷ
sản dùng để ăn hàng ngày nên nó rất đơn điệu. Để giảm bớt sự đơn
điệu này, người Nam Bộ nghĩ ra nhiều cách chế biến khác nhau.
Đối với mắm xác, cách đơn
giản nhất là bổ sung thêm các loại thực phẩm khác như thịt, cá
sống, rau, củ, quả... – kết quả là chúng ta có vô số các loại chế
phẩm từ mắm được đưa ra thị trường. Ví dụ như mắm cá dưa leo, mắm tôm chua cá
pháo, v.v. Hoặc chế biến bằng các cách thức đa dạng như chưng, chiên, kho... thành
các mónmắm chưng, mắm chiên, mắm kho (lẩu), v.v.
Đối với mắm nước, thì pha
loãng ở các độ khác nhau. Ví dụ, nước mắm chấm rau luộc, thịt luộc
thì để nguyên thêm gia vị, nhưng nước mắm để chấm các loại bánh
(bánh bèo, bánh cuốn, v.v.) thì pha thật loãng. Hoặc tuỳ từng loại
đồ ăn mà thêm các loại gia vị khác nhau cũng làm cho nước mắm đa
dạng thêm bội phần. Nói đến nước
mắm gừng là người ta
nghĩ ngay đến món ốc luộc, hay thịt vịt luộc; nước mắm tỏi là nghĩ tới bún thịt nướng, chả
giò,... Đây là một kỹ thuật nữ công đơn giản, nhưng cũng không thật
dễ dàng. Vì vậy, đôi khi các bà mẹ chồng cũng sử dụng nó như một
thước đo sự khéo léo của cô con dâu.
3.4. Đối phó với những hạn chế khác
Nước mắm có giá trị hơn muối
ở lượng đạm động vật mà nó chứa, cho nên người tiêu dùng thường chọn
mua nước mắm có độ đạm cao. Tuy nhiên, không phải loại nước mắm nào
cũng đạt được yêu cầu này. Do vậy, một số cơ sở sản xuất nước mắm tìm rất
nhiều cách đánh lừa người mua và “qua mặt” cơ quan quản lý chất lượng thị
trường.
Chẳng hạn như cho thêm vào sản phẩm một lượng muối amoni vô cơ hoặc
phân bón hoá học amoni sulfat là có thể cho ra kết quả phân tích đạm toàn phần
cao hơn thực tế. Tuy nhiên với cách làm này, nếu áp dụng phương pháp đánh giá
thành phần đạm trong nước mắm một cách toàn diện có thể tìm thấy tỷ lệ
amoniac/formol vượt quá giới hạn cho phép và sản phẩm được xem là kém chất
lượng.
Để đối phó với các cơ quan chức năng, các cơ sở sản xuất thay thế muối
amoni vô cơ bằng phân u-rê. Theo dẫn giải của giới nghiên cứu, muốn tăng 1 độ
đạm chỉ cần thêm khoảng 3,3 gram u-rê cho mỗi lít nước mắm mà nếu phân tích
thành phần cũng không thể phát hiện được [Bảo Chân 2003].
Hoặc các nhà sản xuất
không có thương hiệu tìm cách nhái hoặc làm giả sản phẩm của các cơ
sở sản xuất nổi tiếng để bán được nhiều hàng hơn. Ví dụ, nước mắm
Phú Quốc ở Kiên Giang nổi tiếng được nhiều người ưa chuộng vì có “màu
cánh gián đậm, trong và mùi thơm nhẹ rất đặc trưng, vị mặn - ngọt có hậu béo
của đạm”, nhưng thực tế “chính quyền Phú Quốc và hiệp hội ngành nghề biết rõ
nước mắm Phú Quốc giả bày bán ở các tỉnh ĐBSCL, TP HCM, miền Trung, miền Bắc…
nhưng đành bó tay, vì không có cơ sở ngăn chặn”, thậm chí “gần đây sản phẩm này
đang được sản xuất và bày bán tràn lan ở Thái Lan” [Sài Gòn GP 2005]. Bà Nguyễn Thị Tịnh, Chủ tịch
Hiệp hội nước mắm Phú Quốc cho biết:
“Nhiều cơ sở lợi dụng danh tiếng nước mắm
Phú Quốc để pha chế, kinh doanh kiếm lời”. “Bình quân mỗi năm, các cơ sở tại
Phú Quốc sản xuất từ 10-12 triệu lít nước mắm, nhưng trên thị trường nước mắm mang
nhãn hiệu Phú Quốc bày bán lên đến hàng trăm triệu lít. Như vậy, chỉ có khoảng
10% là nước mắm thật, còn 90% nước mắm "dỏm"” [Sài Gòn GP 2007].
Trang chủ của
Hiệp hội nước
mắm Phú Quốc cho biết: “Ước tính hàng năm, thị trường tiêu thụ khoảng 180-200
triệu lít nước mắm nhãn hiệu… Phú Quốc. Tuy nhiên, hiện nay, năng lực sản xuất
của các nhà thùng chính hiệu ở Phú Quốc chỉ chiếm khiêm tốn từ 5-8% tức khoảng
10 - 12 triệu lít/năm. Phần lớn hàng hóa còn lại được gọi là “nước mắm Phú
Quốc” chủ yếu là hàng dỏm, hoặc muối pha với tinh chất...
Nước mắm Phú Quốc làm
ra bao nhiêu thì tiêu thụ hết bấy nhiêu. Do vậy, thị trường trong và ngoài nước
nhan nhản thương hiệu này. Khắp các siêu thị, chợ, cửa hàng, đi đâu cũng thấy
nước mắm Phú Quốc. Tại Thái Lan, Hồng Công cũng có “nước mắm Phú Quốc”; trên
thị trường châu Âu, thương hiệu nước mắm Phú Quốc cũng bị tranh chấp... trên
không gian ảo cũng đang xảy ra tình trạng mạo nhận nước mắm Phú Quốc”
[Nuocmamphuquoc.org 2007; Bùi Văn Phú 2009].
4. Văn hoá sùng bái mắm
Mắm là món đồ ăn thông
dụng ở Việt Nam đến nỗi Trần Ngọc Thêm cho rằng “Các món ăn khác
thì có thể có người ăn, người không, còn cơm và nước mắm thì ai
cũng xới và ai cũng chấm” [1996/2004: 367]. Do vậy mà bất kỳ nhà hàng
ăn nào cũng để sẵn trên bàn hũ nước mắm, đôi khi cả hũ mắm tôm như
những món gia vị thông dụng, bất kể khách có nhu cầu dùng hay không.
Vì mắm thông dụng và phổ
biến như vậy, cho nên ở Việt Nam có các loại dụng cụ dùng riêng để
đựng mắm:chén nước mắm (chén
loại nhỏ), vại mắm, lu mắm, hũ mắm...
Vì vậy mắm trở thành một thứ
quà được ưa chuộng và tôn sùng không thua gì những loại sang trọng khác. Mỗi
khi đi chơi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, người ta không quên mua
mắm mang theo về làm quà cho người thân và bạn bè.
5. Văn hoá lưu luyến mắm
5.1. Mắm quá thông dụng và gắn bó với
đời sống hàng ngày của người Việt Nam, cho nên từ chuyện mắm, người ta
liên tưởng sang nhiều chuyện khác và, ngược lại, từ nhiều chuyện khác, người ta
liên tưởng về chuyện mắm.
Mắm gắn bó với bữa ăn, với gia
đình, với người phụ nữ nên chuyện “tương
cà mắm muối” được dùng để chỉ công
việc nội trợ.
Làm mắm là công việc rất
công phu, vất vả, nên người làm mắm phải hết lòng. Do vậy mà có câu: Quần dài thì ăn mắm thối, quần đến đầu
gối thì ăn mắm thơm.
Từ kinh nghiệm xem nước, xem màng trong quá trình làm mắm (nếu nước trong,
sánh vàng, màng mỏng và trong thì là mắm ngon, nếu nước đục, màng
nổi màu thì coi như mẻ mắm bị hỏng), người ta bàn sang việc nhận diện lễ
hội, nhận diện con người: Nước
mắm xem màng màng, Thành
hoàng xem cờ quạt, con hát xem bầu bì. Mắm không ngon thì xem nước thống,
việc làm không chóng coi bộ chân tay.
Từ đặc tính nổi bật của mắm
là mặn, người ta nghĩ đến tính mức độ, tính hệ quả: Ăn cơm với mắm, thấm về lâu. Liệu cơm
gắp mắm. Mắm mặn nỏ chết trôi.
Làm mắm phải chờ thời gian
lâu cho mắm ngấu ăn mới ngon. Từ đây mà nghĩ đến những thứ “ngấu” chuyên
nghiệp khác: Mắm ngấu nấu cá trê, võ nghề về đất
thánh. Mắm ngấu thì ngon, ruộng ngấu mẹ con cả
mừng.
5.2. Mắm được dùng như thước
đo văn hóa ứng xử của con người. Vì mắm quá phổ thông và quen thuộc, nên
việc chăm sóc, quan tâm đến chén mắm ăn được xem là phẩm chất tốt: Mắm kho chấm với dưa bồng, Nồi cơm vét
sạch, mẹ chồng khen ngon. Ngược lại, mọi việc tính toán so đo liên quan
tới mắm bị xem là keo kiệt, nhỏ nhen: Xémắm còn hòng mút tay. Đo lọ nước mắm, ngắm củ dưa hành.
Nói “thêm mắm dặm muối” là chỉ việc gia giảm,
phóng đại, làm cho câu chuyện thêm đậm đà.
Mắm được dùng để chỉ hình dáng, tính cách con
người cả khi câu chuyện hoàn toàn không liên quan gì tới mắm: Gắt như mắm tôm, Trai ba mươi tuổi
đang xinh, Gái ba mươi tuổi như hình mắm
nêm. Ngay cả khi trai gái yêu đương tán tỉnh nhau cũng không quên dặm
chuyện mắm vào: “Nước mắm Hòn dầm
con cá đối, Dìa nói chị hai mầy biểu tối tao qua.”
Mắm đi vào các truyện cổ
tích, truyện cười. Trong truyện cổ tích Tấm
Cám có chi tiết Tấm lấy
xác Cám làm mắm gửi cho dì ghẻ ăn. Truyện cười
dân gian “Đồng nào mua mắm,
đồng nào mua tương” chê cười người nông cạn, ít suy nghĩ. Truyện “Mang
đĩa đi mua nước mắm”
để chế giễu người vụng về, hoặc để chỉ một công việc phải làm rất
lâu mà vẫn không thực hiện được.
Mắm đã trở thành một thứ
“tâm thức” của người Việt. Mắm đi vào cuộc sống hàng ngày. Mắm theo người
Việt đi ra nước ngoài - ai sống xa quê hương cũng luôn thèm, nhớ hương vị
mắm.
6. Đặc trưng của văn hoá mắm trong ẩm
thực Nam Bộ
6.1. Mọi giá trị liên quan đến
mắm (bao gồm: mắm, cách thức sản xuất và sử dụng mắm, cùng mọi hệ quả của
chúng) tạo thành.
Văn hoá mắm Nam Bộ lưu giữ đầy
đủ các dấu ấn của tự nhiên lẫn con người Nam
Bộ. Sự tồn tại của mắm ở mức độ cực kỳ phong phú phản ánh điều kiện tự nhiên
sông nước – biển đảo – nắng nóng đặc biệt của vùng này. Song mắm phổ biến ở
Nam Bộ không chỉ vì ở đây có nhiều nguyên liệu và có điều kiện
thuận lợi cho việc chế biến. Sự phát triển của mắm một phần khác còn
vì nó rất phù hợp với con người Nam Bộ.
Thứ nhất, mắm phù hợp với
khẩu vị Nam Bộ. Mắm mặn và tanh nên phải ăn với tiêu, ớt cho át bớt
vị tanh. Điều này phù hợp với khẩu vị ăn mặn và cay của người Nam
Bộ. Hơn nữa, món ăn mặn và cay (dương tính) trong điều kiện thời tiết
nóng (dương tính) nữa bắt buộc người Nam Bộ phải gia giảm thêm khổ qua
(mướp đắng) và các loại rau đắng – loại thực vật rất phát triển ở
vùng đồng bằng nóng ẩm quanh năm.
Thứ hai, mắm phù hợp với
tính cách rộng rãi, phóng khoáng, bộc trực, ngay thẳng của người Nam
Bộ. Khi chuẩn bị, người ta dọn hết mọi thứ lên bàn ăn, mắm dọn ra
nguyên màu sắc, ít nêm nếm, gia giảm. Khi ăn thì thoải mái, đa dạng,
tuỳ theo cách ăn của từng người.
Thứ ba, mắm là món luôn có
sẵn, lại dễ chế biến, không cầu kỳ, nên nó rất thích hợp với việc thoả
mãn nhu cầu thích ăn nhậu, tiệc tùng của người Nam Bộ. Gặp nhau, có
chai rượu đế, chủ nhà ra lu xúc tô mắm sống hoặc nấu nước đổ vào,
chạy ra quanh nhà lượm rổ rau các loại là xong món mồi, có thể đáp ứng
cho một buổi nhậu lai rai rôm rả.
6.2. Trong số các món mắm thì
có thể xem lẩu mắm là món thể hiện điển hình nhất cho
tính cách đặc trưng của văn hoá ẩm thực Nam Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Mặc dù có nguồn gốc từ dân
Khmer (cùng gốc với bún mắm - một loại nước mắm kho làm nước lèo ăn bún hoặc ăn
rau[4]),
song sau khi được người Việt tiếp nhận và phát triển, lẩu mắm đã mang trong
mình đầy đủ các đặc tính của văn hoá ẩm thực Nam Bộ nói riêng và
Việt Nam nói chung[5].
Thứ nhất, lẩu mắm mang tính tổng hợp. Nó được
tổng hợp từ các loại nguyên liệu đủ mọi nguồn, từ các loại thực
phẩm có nguồn gốc động vật sông biển (cá tôm...) đến thực phẩm
có nguồn gốc động vật trên cạn (thịt heo, thịt bò), cùng với
các loại thực vật đã qua chế biến (bún, mỳ) và chưa chế biến (các
loại rau). Theo cách ăn, lẩu mắm kết hợp được cả các loại thực
phẩm đang sôi sùng sục trong nồi lẩu trên bếp với các loại thực phẩm
tươi sống. Tính tổng hợp còn thể hiện cả trong cách trang trí món ăn và cả
trong cách ăn – người sành ăn khi ăn lẩu phải biết phối hợp làm sao cho đủ sắc
trắng, xanh, tím, hồng... đủ vị mặn, ngọt, chua, cay... trong từng miếng ăn.
Thứ hai là lẩu mắm có tính cộng đồng. Mọi thành
viên đều ngồi quanh nồi lẩu một cách dân chủ tự chọn cách ăn riêng của
mình, không ai có vị trí đặc biệt hơn ai, thêm hay bớt một vài người
hầu như không ảnh hưởng gì đến chất lượng bữa ăn.
Thứ ba là lẩu mắm có tính linh hoạt. Mỗi người
chọn ăn theo cách riêng, khẩu vị riêng của mình: tái hay chín; thiên
về đạm hay thiên về rau; cay nhiều hay cay ít... Nếu số lượng người ăn
tăng thêm nhiều thì có thể bổ sung thêm mắm, nước vào nồi lẩu. Và
các thành phần thức ăn có thể gia giảm tuỳ ý người ăn hoặc gia chủ.
Như vậy, từ một món mắm
kho dân dã, lẩu mắm đã được phát triển nâng lên mức nghệ
thuật, làm phong phú thêm kho tàng văn hoá mắm trong ẩm thực Nam Bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bảo Chân 2003: Cảnh báo urê trong nước mắm. - http://www.nea.gov.vn/thongtinmt/noidung/ld_5_9_03.htm
3.
Hoàng Phê 1992: Từ điển Tiếng Việt. – Nxb
Đà Nẵng.
4.
Huỳnh Thị Dung... 2001: Từ điển văn hoá ẩm thực. –
H.: Nxb Văn hoá Thông tin, 932tr.
5.
K.T 2006: Lẩu mắm: cuộc biểu dương lực lượng
cuả rau. - http://www.sgtt.com.vn/Detail37.aspx?ColumnId=37&;NewsId=9152&fld=HTMG\2006\0413\9152
6.
Lê Tân 2003: Văn hoá ẩm thực ở Trà Vinh.
– H.: Nxb Văn hoá Thông tin, 84tr.
7.
Nghĩa Nhân 2002: Văn phòng luật sư Hà Đăng bị tạt
mắm tôm. - http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2002/10/3B9C10B4/
8.
Nuocmamphuquoc.org 2007: Nước mắm Phú Quốc: Chỉ 5-8% là hàng
thật! -http://www.nuocmamphuquoc.org/modules.php?name=CMS&;op=details&mid=13&mcid=16
9.
Phan Thị Thanh Quế 2007: Công nghệ chế biến nước mắm. - http://www.vocw.edu.vn/content/m10610/latest/
10.
Phan Thị Yến Tuyết 1993: Nhà ở – trang phục – ăn uống
của các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. – H.: Nxb Khoa học
Xã hội, 361tr.
11.
Pháp Luật TP
HCM 2004: Đánh
ghen bằng nước mắm. - http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/Hinh-su/2004/06/3B9D3DC2/
12.
Sài Gòn GP 2005: Nước mắm Phú Quốc kêu cứu. - http://vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2005/03/3B9DC6C6/
13.
Sài Gòn GP
2007: 90%
nước mắm Phú Quốc là hàng "dỏm". -http://vitinfo.com.vn/Muctin/Kinhte/Hanghoa/LA19453/default.htm
15.
Thạch Lam... 2001: Những áng văn ẩm thực. –
H.: Nxb Văn hoá Thông tin, 467tr.
16.
Thanh Niên 2006: Dùng mắm tôm chống người thi hành
công vụ. - http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/10/3B9EF6BE/
17.
Trần Ngọc Thêm 1996/2004: Tìm về bản sắc văn hoá Việt
Nam. - Nxb Tổng hợp TP.HCM, 690tr.
18.
Trần Ngọc Thêm 1998: Vai trò của nước trong truyền thống văn hóa Việt Nam và Đông Nam Á. – Tạp chí văn hóa – nghệ thuật, số 8,
tr. 66-72.
19.
Trần Ngọc Thêm 2005: Lý luận văn hoá học (tập bài giảng cho HVCH). – Đại học
KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM (lưu hành nội bộ).
20.
Trần Quốc Vượng 2000: Văn hoá Việt Nam tìm tòi và
suy ngẫm, NXB văn hoá dân tộc, 984 tr.
21.
Trương Thanh Hùng 2003: Văn hoá ẩm thực Kiên Giang.
– H.: Nxb Văn hoá thông tin, 168tr.
22.
Xuân Huy 2000: Văn hoá ẩm thực và món ăn
Việt Nam. - Tp. HCM: Nxb Trẻ, 765tr.
Nguồn: In trong: Những vấn đề Khoa học Xã hội & Nhân văn – Chuyên đề Văn hoá học, Nxb Đại học Quốc gia, 2013
Nguồn: In trong: Những vấn đề Khoa học Xã hội & Nhân văn – Chuyên đề Văn hoá học, Nxb Đại học Quốc gia, 2013
[1] Sau
này, theo cách chế biến thuỷ sản, có nơi người ta dùng nhiều loại
nguyên liệu khác nhau và cũng gọi là nước mắm (nước mắm nấm
rơm,...). Lại có một số người cực đoan coi mắm là cách muối sản phẩm
để dùng lâu dài nên cũng coi cảdưa (rau, củ, quả), tương (đậu nành)... như những loại mắm.
[2] Ở
các khu vực khác trên thế giới cũng có thể có những thứ sản phẩm làm từ cá gần
giống mắm, nhưng không phổ biến, hoặc có nguồn gốc ngoại nhập.
[3] Món
mắm này đôi khi không phải chỉ có tôm, mà còn có nhiều gia vị và
chất độn khác.
[4] “Bún
mắm thì không đâu ngon bằng bún mắm của dân Khmer ở miền Tây. Những biến tấu về
sau này chẳng qua là một kiểu tiếp biến văn hoá ẩm thực giữa người Khmer bản
địa và người miền Trung và Nam khẩn hoang. Biến tấu đậm nhất, có thể nói được
là biểu tượng của vùng sông nước Nam bộ là đĩa rau hoành tráng với hàng chục
loại rau” [K.T. 2006].
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét