Thứ Năm, 2 tháng 2, 2017

XN sức khỏe - Các xét nghiệm hoá sinh về bệnh tiểu đường (Đái tháo đường).

HbA1C là dạng kết hợp của glucose với HbA1. Nó chiếm hơn 70% lượng hemoglobin được glycosyl hóa. Nồng độ HbA1C tương quan với nồng độ đường máu trong thời gian bệnh bùng phát (khoảng 6 - 8 tuần).



WHO đã định nghĩa: Bệnh tiểu đường (đái tháo đường) là bệnh mà chắc chắn đường máu lúc đói lớn hơn 7,0 mmol/l (126 mg/dl), khi xét nghiệm đường máu hơn 2 lần hoặc định lượng đường máu ở bất kỳ thời điểm nào cũng lớn hơn 11 mmol/l.

Để xác định bệnh tiểu đường, người ta thường làm một số xét nghiệm sau:

1/ Định lượng glucose máu:
§         Bình thường: nồng độ glucose máu người khoẻ mạnh, lúc đói là: 4,4 - 6,1 mmol/l (0,8- 1,1 g/l).
§         Trước kia, định lượng đường máu theo phương pháp Folin-Wu là phương pháp định lượng không đặc hiệu dựa vào tính khử của đường cho nên khi trong máu bệnh nhân có các chất khử khác (ví dụ vitamin C) nó sẽ tạo nên kết quả cao hơn nồng độ đường thực có.
§         Hiện nay, định lượng đường máu đặc hiệu là phương pháp enzym-màu. Đó là phương pháp định lượng đường máu dựa trên phản ứng xúc tác của glucooxidase: oxy hóa glucose thành acid gluconic và peroxidhydrogen (H2O2). H2O2 tác dụng với 4-aminoantipyrine và phenol dưới xúc tác của peroxidase (POD) tạo thành chất có màu hồng là quinoneimine và nước. Đo mật độ quang của đỏ quinoneimine ở bước sóng 500nm sẽ tính được kết quả đường máu.
§         Bằng phường pháp enzym, kết quả đường máu chính xác hơn, không phụ thuộc vào các chất khử có trong máu như phương pháp kinh điển (Folin-Wu) nên kết quả thường thấp hơn một chút so với phương pháp Folin-Wu.

2/ Phát hiện đường niệu và ceton niệu:
Khi làm xét nghiệm 10 thông số nước tiểu, kết quả cho thấy:

a) Bình thường:
  • Glucose niệu (-).
  • Ceton niệu (-).
  • pH nước tiểu bình thường ở giới hạn từ 5- 8.


b) Bệnh lý tiểu đường:
  • Đường niệu (+), có nhiều khi nồng độ glucose niệu lớn hơn 1000mg/dl ( >10 g/l).
  • Ceton niệu (+).
  • pH nước tiểu giảm mạnh vì các thể cetonic đều là các acid mạnh (acid acetoacetic và acid β-hydroxybutyric). Khi các thể cetonic tăng cao trong máu, đào thải qua nước tiểu, làm pH nước tiểu giảm thấp hơn so với bình thường (pH < 5).

d) Tỷ trọng niệu (d):
Có thể thay đổi từ 1,01- 1,02 đối với người bình thường. .  Tăng cao trong bệnh tiểu đường ( d >1,030).

3/ Nghiệm pháp tăng đường máu theo đường uống:
Nghiệm pháp gây tăng đường máu hay nghiệm pháp dung nạp glucose được sử dụng để giúp chẩn đoán bệnh tiểu đường.

a) Nghiệm pháp gây tăng đường máu gồm:
  • Nghiệm pháp dung nạp glucose tiêm tĩnh mạch: được dùng ít hơn do tâm lý phải lấy máu nhiều lần, không đơn giản như phương pháp uống.
  • Nghiệm pháp gây tăng đường máu theo đường uống (Oral glucose tolerance test = OGTT): đây là nghiệm pháp dễ thực hiện hơn, đơn giản hơn mà vẫn cho kết quả chẩn đoán tin cậy.

b) Cách tiến hành:

i) Chuẩn bị bệnh nhân:
Làm nghiệm pháp vào buổi sáng sau 10 - 16h ăn kiêng (0,15g glucid/1 kg thân trọng), không uống rượu, không hút thuốc lá, nghỉ hoàn toàn trong suốt quá trình xét nghiệm. Không được làm xét nghiệm trong quá trình hồi phục đối với các bệnh cấp tính, stress, phẫu thuật, chấn thương, mang thai, bất động đối với bệnh nhân mạn tính. 
Với bệnh nhân đang nằm viện cần phải ngừng một số thuốc ảnh hưởng tới nồng độ đường máu vài tuần trước khi làm nghiệm pháp. Ví dụ: thuốc lợi tiểu theo đường uống, phenylstoin, thuốc ngừa thai.
Nghiệm pháp được dùng cho bệnh nhân có đường máu tăng nhẹ (6,1- 7,8 mmol/l).

ii) Không chỉ định đối với các bệnh lý sau:
§         Tăng đường máu rõ rệt (> 7,8 mmol/l) và kéo dài.
§         Thường xuyên đường máu tăng không rõ rệt (< 6,1 mmol/l).
§         Bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng đái tháo đường điển hình và glucose máu > 11,1 mmol/l.
§         Ở phụ nữ đang mang thai có nghi ngờ đái tháo đường (tốt nhất với họ nên để sau khi sinh mới làm, nếu thấy thật cần thiết nên làm nghiệm pháp kiểm tra ở tuần thứ 6- 7 của thai sản).
§         Đái tháo đường thứ phát (hội chứng đái tháo đường do di truyền, tăng glucose máu do hormon).
§         Cho bệnh nhân uống 1,75 g (trong 4,4 ml nước)/1kg trọng lượng cơ thể. Trước khi cho uống glucose, cho bệnh nhân đi tiểu hết và giữ lại 5 ml nước tiểu này, đánh số mẫu 0 giờ và lấy máu đánh số mẫu máu 0 giờ. Cho bệnh nhân uống dung dịch glucose, khi uống hết bắt đầu tính thời gian sau 1/2, 1, 2 và 3 giờ uống glucose lấy máu và nước tiểu để định lượng và định tính glucose.

Như vậy, lấy máu và nước tiểu xét nghiệm theo thời gian:
§         0h: lần 1.
§         30’: lần 2.
§         60’ : lần 3.
§         180’: lần 4.

iii) Đánh giá kết quả:

Bình thường:
Glucose/0h < 6,1 mmol/l (đường máu ở mức bình thường).
Sau 30-60’: nồng độ glucose máu tăng cực đại có thể đạt <  9,7 mmol/l.
Sau 120’: trở về nồng độ < 6,7 mmol/l.

Tiểu đường:
Nếu glucose máu sau 30 - 60 phút tăng cao hơn so với cùng thời gian ở người bình thường và thời gian trở về mức ban đầu có thể từ 4 - 6 h (chậm hơn nhiều so với người bình thường).
Trong lâm sàng, ngoài xét nghiệm glucose máu và niệu, người ta còn làm các xét nghiệm định lượng fructosamin, HBA1C. Các xét nghiệm này, chúng cho phép theo dõi điều trị và tiên lượng bệnh vì chúng phản ánh nồng độ đường máu ở khoảng thời gian dài hơn.

4/ Nghiệm pháp dung nạp insulin:
§         Tiêm insulin tĩnh mạch liều 0,1 đơn vị/kg cân nặng. Dùng liều thấp hơn với bệnh nhân bị nhược năng tuyến yên.
§         Bình thường: đường máu lúc đói giảm nhanh, có thể tới khoảng 50% so với giá trị ban đầu sau dùng insulin; đường máu giảm trong khoảng 20-30 phút, rồi tăng dần về giá trị ban đầu trong khoảng 90-120 phút.
§         Tăng dung nạp insulin: đường máu giảm 25% và trở về giá trị ban đầu nhanh, gặp trong bệnh tiểu đường.

Hình: Đường biểu diễn nghiệm pháp gây tăng đường máu ở người bình thường và bệnh nhân tiểu đường.
a) Bình thường.
b) Ngưỡng thận.
c) Tiểu đường.

5/ Fructosamin máu:

Fructosamin máu là lượng đường có trong phức hợp của glucose với albumin theo công thức:
Albumin + Glucose = Fructosamin
Fructosamin cho phép đánh giá nồng độ glucose máu trong khoảng 2- 3 tuần sau điều trị ổn định ở bệnh nhân đái tháo đường.
Sự thay đổi nồng độ fructosamin có liên quan với sự thay đổi lượng albumin hoặc protein huyết tương.

Xét nghiệm fructosamin có giá trị hơn xét nghiệm đường máu ở chỗ:
fructosamin không những cho biết nồng độ đường máu ở thời điểm hiện tại mà còn cho biết mức độ ổn định đường máu của người đó từ 2 tuần trước đó.

Ở người bình thường:
Fructosamin = 2,4- 3,4 mmol/l.

6/ HbA1C (Hemoglobin glycosylat):
§         HbA1C là dạng kết hợp của glucose với HbA1. Nó chiếm hơn 70% lượng hemoglobin được glycosyl hóa. Nồng độ HbA1C tương quan với nồng độ đường máu trong thời gian bệnh bùng phát (khoảng 6 - 8 tuần) và từ đó cung cấp nhiều thông tin về tăng đường máu hoặc tăng đường niệu.
§         Hb = HbA1 (97- 98%) + HbA2 (2-3%) + HbF (< 1%).
§         HbA1 + Glucose = HbA1C (chiếm > 70% Hb glycosyl hóa) HbA1 + G6P = HbA1b.
§         HbA1 + FDP = HbA1a.

Hiện nay để chẩn đoán bệnh tiểu đường, người ta thường làm ba xét nghiệm:
§         Glucose máu.
§         Glucose niệu, ceton niệu.
§         Nghiệm pháp tăng đường máu theo đường uống.
§         Các xét nghiệm nghiệm pháp dung nạp Insulin và Fructosamin đòi hỏi kỹ thuật và trang bị cao hơn nên các bệnh viện nhỏ và vừa thường ít làm hơn.

 (Theo Dieutri.vn)


Chỉ số đường huyết của Bệnh tiểu đường.

Để hiểu được mức độ chỉ số đường trong máu (Chỉ số đường huyết) là chìa khóa trong việc chẩn đoán của bệnh đai tháo đường. Dưới đây là bảng chỉ số đường huyết tiêu chuẩn của Hiệp hội Đái tháo đường Quốc tế dành cho những người mắc phải bệnh tiểu đường và không bị tiểu đường:

Mức mục tiêu theo loạiTrước bữa ăn  (sau bữa ăn trước)2 giờ sau bữa ăn  (sau bữa ăn)
Không bị tiểu đường4,0-5,9 mmol / Ldưới 7,8 mmol / L
Bệnh tiểu đường loại 24-7 mmol / Ldưới 8,5 mmol / L
Bệnh tiểu đường loại 14-7 mmol / Ldưới 9 mmol / L
Bệnh tiểu đường trẻ em w / loại 14-8 mmol / Ldưới 10 mmol / L
Tùy theo lứa tuổi, giai đoạn của bệnh, mức độ của các biến chứng…mà chỉ số đường huyết của mỗi người sẽ khác nhau, tốt nhất bạn nên tham khảo ý kiến của Bác sĩ chuyên khoa khám cho bạn.

Chỉ số đường huyết với người bình thường:

Đối với đa số những người khỏe mạnh, chỉ số lượng đường trong máu bình thường là như sau:
- Đường huyết bình thường trong cơ thể  khoản 4 mmol (4 mmol/L hoặc 72 mg/dL)
- Khi hoạt động bình thường của cơ thể phục hồi chỉ số lượng đường trong máu ở khoản 4,4 – 6,1 mmol/L (82 – 110 mg/dL)
- Một khoảng thời gian ngắn sau khi ăn đường huyết có thể tăng tạm thời lên đến 7,8 mmol/L (140 mg/dL)

Đối với những người mắc bệnh tiểu đường, đường huyết có thể như sau:

- Trước bữa ăn : 4 – 7 mmol/L (72 mg/dL - 128 mg/dL) cho những người bệnh có loại 1 hoặc loại 2.
- Sau bữa ăn : dưới 9 mmol/L cho những người bệnh có loại 1 và 8.5mmol/L cho những người bệnh có loại 2.

Làm cách nào để xác định chỉ số đường huyết để chẩn đoán bệnh tiểu đường ?

Có 2 cách để kiểm tra và chẩn đoán người nào đã mắc bệnh tiểu đường.

1/ Kiểm tra chỉ số đường huyết trước khi ăn:

Việc kiểm tra chỉ số đường huyết nên thực hiện vào buổi sáng và bạn cần phải nhịn ăn sáng để kiểm tra, lượng đường trong máu sẽ như sau:
- Đối với người bình thường: 4,0 – 5,9 mmol/l (70-107 mg/dl)
- Đối với người tiền tiểu đường hoặc suy Glucose đường huyết: 6,0 – 6,9 mmol/l (108-126 mg/dl)
- Chẩn đoán người bệnh tiểu đường: hơn 6,9 mmol/l (126 mg/dl)

2/ Kiểm tra lượng đường huyết sau khi ăn 2 giờ:

- Đối với người bình thường:  dưới 7,8 mmol/l (140 mg/dl)
- Đối với người tiền tiểu đường hoặc suy dung nạp glucose:  7,9-11,1 mmol/l (141 đến 200 mg/dl)
- Chẩn đoán người bệnh tiểu đường:  hơn 11,1 mmol/l (200 mg/dl)
Lượng đường huyết thấp, chấp nhận được hay lượng đường huyết cao được tóm tắt bằng bảng dưới đây:

bang-chuyen-doi-duong-huyet

BIẾN CHỨNG NGUY HIỂM CỦA BỆNH TIỂU ĐƯỜNG

Hệ lụy của bệnh tiểu đường (đái tháo đườngchính là những biến chứng cực kỳ nguy hiểm có thể dẫn tới mù lòa, tàn phế, thậm chí dẫn tới tử vong. Chính vì vậy việc phát hiện sớm và điều trị khỏi bệnh tiểu đường là một sự mong mỏi không chỉ riêng người bệnh, gia đình mà toàn xã hội. 

Bệnh đái tháo đường xếp vào tốp đầu những bệnh nguy hiểm nhất hiện nay, cũng giống như bệnh ung thư hay HIV, đái tháo đường cũng phát triển một cách thầm lặng, âm ỉ, chỉ đến khi bệnh có biểu hiện ra bên ngoài thì lúc đó dường như đã quá nặng, nên việc điều trị sẽ gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt điều đáng sợ nhất là những biến chứng bệnh tiểu đường.
Biến chứng bệnh tiểu đường
Tập luyện + chế độ ăn uống khoa học + uống thuốc đều đặn sẽ giúp kiểm soát đường huyết

Xét về mặt cơ chế chúng ta sẽ hiểu tại sao lại có thể sinh ra bệnh tiểu đường. Tiểu đường chính là hiện tượng rối loạn quá trình trao đổi chất diễn ra trong cơ thể nó sẽ tác động trực tiếp hoặc có thể gây ra những căn bệnh khác cũng như các biến chứng như là hệ quả từ một căn bệnh ban đầu. Bệnh tiểu đường và biến chứng hoàn toàn có thể kiểm soát được nếu như bệnh nhân tiểu đường được phát hiện và điều trị kịp thời.

Bệnh tiểu đường ảnh hưởng đến các tế bào beta trong tuyến tụy:


Trong bệnh tiểu đường tuýp 1, các tế bào bị phá hủy bởi cơ thể vì cơ thể nghĩ rằng chúng là các tác nhân gây bệnh. Các tế bào beta tạo ra insulin. Insulin được sử dụng để chuyển hóa glucose trong máu thành glycogen trong mỡ, cơ bắp và các tế bào gan và do đó làm giảm nồng độ glucose trong máu. Nếu không có insulin, nồng độ đường không thể được giảm và điều này có thể dẫn đến sự tăng đường huyết.

Trong bệnh tiểu đường tuýp 2, cơ thể xuất hiện sự kháng insulin. Điều này có nghĩa là cơ thể vẫn có thể sản xuất insulin nhưng cần thêm insulin để giải quyết lượng đường trong máu hoặc insulin là không hiệu quả. Này cũng sẽ dẫn đến nồng độ đường huyết cao và tăng đường huyết.

Triệu chứng của bệnh tiểu đường:

• Chứng khát nhiều hoặc khát thường xuyên, hoặc đột nhiên khát.
• Hay đi tiểu thường xuyên
• Đói thường xuyên hoặc đột nhiên đói
• Mệt mỏi
• Mờ mắt
• Khô miệng hoặc ngứa khắp cơ thể
• Sụt cân đột ngột



Các biến chứng nguy hiểm của bệnh tiểu đường:


1. Tổn thương thần kinh:
Bệnh nhân có thể bị tổn thương thần kinh ngoại vi: làm thay đổi cảm giác, giảm cảm giác, tê bì hoặc kim châm, yếu cơ. Các dấu hiệu này thường hay xảy ra ở bàn chân nên bàn chân dễ bị tổn thương gây loét có thể làm nhiễm trùng, hoại tử và phải cắt cụt chi để bảo toàn tính mạng.

2. Tổn thương thận:
Do hàm lượng đường trong máu luôn cao gây tổn thương hàng triệu vi mạch tại thận dẫn đến suy giảm các chức năng quan trọng lọc, bài tiết của thận và suy thận.

3. Tổn thương mắt:

Những mạch máu nhỏ tại võng mạc dễ bị nghẽn, vỡ trong lòng mắt gây ra tổn thương dẫn đến các bệnh lý về võng mạc. Mặt khác, tiểu đường cũng có thể gây đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp, gây mù loà.

4. Bệnh lý mạch máu và tim:
Biến chứng tim mạch ở bệnh nhân tiểu đường là cực kỳ nguy hiểm và rất thường gặp. Bệnh nhân rất dễ bị cao huyết áp, xơ cứng động mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não gây bại liệt hoặc tử vong. Theo các số liệu thống kê cho thấy 65 % tỉ lệ tử vong ở bệnh tiểu đường là do tai biến mạch máu.

5. Nhiễm trùng:
Bệnh nhân tiểu đường cũng rất dễ bị nhiễm trùng và có thể bị nhiễm trùng ở bất cứ bộ phận nào điển hình như: răng miệng, lợi, nhiễm trùng da gây mụn nhọt, nấm, nhiễm trùng đường tiểu bàng quang, thận…

Biến chứng của tiểu đường thực sự rất nguy hiểm nhưng chúng ta hoàn toàn có thể ngăn chặn các biến chứng trên nếu kiểm soát tốt hàm lượng đường trong máu.

Không có nhận xét nào: