Thứ Hai, 6 tháng 3, 2017

BỆNH VIÊM GAN E

VÀI YẾU TỐ & QUAN ÐIỂM CHÍNH

  • Vi khuẩn viêm gan E là nguyên nhân thường xuyên nhất gây ra dịch vàng da tại những vùng nhiệt đới.
  • Bệnh lây qua thức ăn và nước uống ô nhiễm bởi vi khuẩn viêm gan E. Bệnh hiếm khi lây qua máu.
  • Ða số bệnh nhân viêm gan E sẽ không có bất cứ một triệu chứng nào đáng kể, nhưng trong một số bệnh nhân kém may mắn, bệnh có thể trở nên ác tính.
  • Một khi bệnh trở nên ác tính, bệnh nhân có thể lìa trần một cách dễ dàng.
  • Bệnh trở nên nguy hiểm cho những phụ nữ đang có thai.
  • Cho tới nay vẫn chưa có thuốc chích ngừa cho bệnh viêm gan E.


Vào năm 1955, trận lụt lớn tại Ấn Ðộ do nước sông Yamuna đã gây ra tiêu chảy và vàng da cho hơn 30 ngàn dân địa phương. Ban đầu người ta cho rằng bệnh viêm gan A lại một lần nữa lan tràn khắp nơi qua nước uống đã bị ô uế, nhưng sau khi thử máu lại, đa số các bệnh nhân này đều có kháng thể chống lại vi khuẩn viêm gan A. Và từ đó họ khám phá ra một loại vi khuẩn viêm gan mới, tương tự như vi khuẩn viêm gan A với khả năng lây bệnh qua thức ăn, nước uống. Ðó là vi khuẩn viêm gan E.

Vi khuẩn viêm gan E được tìm thấy khắp nơi trên thế giới, nhưng nhiều nhất vẫn là các nước ở vùng nhiệt đới gần đường xích đạo. Các nước này bao gồm Châu Mỹ Latin, Phi Châu, lục địa Ấn Ðộ, Trung Ðông, Á Châu nhất là những nước trong vùng Ðông Nam Á. Bệnh bộc phát theo từng chu kỳ, khoảng 5 đến 10 năm theo những mùa mưa lớn gây ra lũ lụt. Từ năm 1986 đến 1988, hơn 120 ngàn dân chúng sống trong vùng Trinh Giang (Xinjiang) tại Trung Hoa đã bị "trúng độc" vì vi khuẩn viêm gan E. Ngay cả trên nước Mỹ, vi khuẩn viêm gan E là nguyên nhân của hơn 50% bệnh viêm gan cấp tính không gây ra bởi vi khuẩn viêm gan A hoặc B.

Khác với bệnh viêm gan A, khi đa số bệnh nhân, nhất là các thiếu nhi, sau khi tiếp xúc với vi khuẩn sẽ bị lây bệnh, vi khuẩn viêm gan E chỉ gây ra bệnh tật trong một thiểu số rất ít từ 1 đến 10%. Tuy nhiên, một khi bị nhiễm trùng, bệnh có thể trở nên ác tính, với khoảng 0.5% đến 4% bệnh nhân viêm gan E sẽ thiệt mạng vì căn bệnh này. Lứa tuổi dễ bị lây bệnh nhất là từ 15 đến 40 tuổi. 

Nguy hiểm hơn hết khi bệnh nhân đang mang thai, nhất là vào 3 tháng cuối cùng. Trong những trường hợp này, hơn 20% các bào thai có thể sẽ bị chết trong bụng người mẹ hoặc ngay sau khi ra đời. Và như thế, vi khuẩn viêm gan E, ngày nay, đã được xem là nguyên nhân quan trọng nhất gây ra dịch viêm gan lây qua đường tiêu hóa.

AI CÓ THỂ BỊ BỆNH VIÊM GAN E?

Vì đây là bệnh truyền nhiễm nên chúng ta ai cũng có thể bị. Tương tự như bệnh viêm gan A, bệnh lây từ người này qua người kia qua thức ăn và nước uống ô nhiễm bởi vi khuẩn viêm gan E. Bệnh dễ lây nhất qua đường từ phân đến miệng (fecal-oral route). Vì thế, tại các nước chậm tiến khi phân người vẫn được dùng trong việc canh nông, bệnh đã và đang lan tràn một cách dễ dàng và nhanh chóng.  Hơn nữa khi hệ thống cầu cống tại các nước này chưa được toàn hảo, nước uống có thể bị ô nhiễm một cách dễ dàng vào mỗi mùa bão lụt.

May mắn thay, như viết ở trên, nếu so với bệnh viêm gan A, bệnh viêm gan E khó lây hơn nhiều. Thông thường từ 50% đến 75% thân nhân sống chung với bệnh nhân viêm gan A cấp tính sẽ bị lây bệnh trong một thời gian ngắn. Ðối với bệnh viêm gan E, chỉ một số người rất ít, khoảng 0.7% đến 2.2%, mới có thể bị lây bệnh khi chung sống với bệnh nhân viêm gan E mà thôi. 

Người ta cho rằng vi khuẩn viêm gan E không được "cứng cáp" cho lắm, nên dễ bị tiêu hủy bởi thiên nhiên. Hơn nữa, để lây bệnh viêm gan E, bệnh nhân cần phải nuốt một số vi khuẩn viêm gan E nhiều hơn nếu so với trường hợp của bệnh viêm gan A. Bệnh đôi khi lây qua máu và rất hiếm khi qua vấn đề sinh lý.

TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH VIÊM GAN E

Thông thường triệu chứng của bệnh viêm gan E chỉ rất nhẹ và nhất thời, kéo dài từ vài ngày đến vài tuần lễ. Bệnh không gây ra những hậu quả lâu dài, như trong trường hợp của bệnh viêm gan B, D và C. Tuy nhiên bệnh có thể trở nên ác tính và nguy hiểm, nhất là khi bệnh nhân đang mang thai. 

Tại tỉnh Trinh Giang trong mùa dịch vào những năm 1986 đến 1988, khoảng 1.5% phụ nữ đang có thai trong ba tháng đầu đã từ trần vì căn bệnh này. Con số này tăng lên 8.5% cho phụ nữ có thai vào tháng thứ 4 đến tháng thứ 6, và 21% cho phụ nữ có thai vào 3 tháng cuối. Ðiều này có nghĩa là cứ 1 trong 5 phụ nữ đang có thai vào những tháng cuối cùng, nếu bị lây bệnh viêm gan E, có thể sẽ thiệt mạng vì căn bệnh này.

Thời gian ủ bệnh kéo dài từ 15 đến 60 ngày sau khi tiếp xúc với vi khuẩn. Thông thường bệnh nhân bắt đầu bị hâm hấp nóng cũng như mệt mỏi, đau nhức toàn thân như khi bị cảm cúm. Sau đó, da và mắt trở nên vàng. Nước tiểu trở nên đậm mầu. Phân có mầu nhạt như đất sét. Bụng đau lâm râm, khó chịu, buồn nôn và ói mửa. Một số ít bệnh nhân bị tiêu chảy, nổi mề đay và đau khớp xương. Khi thử năng chất của gan ALT và AST tăng cao, thường cùng lúc với vàng da. Tình trạng này kéo dài từ 1 đến 6 tuần. 

Từ lúc da và mắt trở nên vàng (jaundice), vi khuẩn viêm gan E có thể được tìm thấy trong phân của bệnh nhân. Nếu hoàn cảnh vệ sinh không được toàn hảo, một số vi khuẩn này có thể ô nhiễm nước uống, và vì thế sẽ lây cho người chung quanh. Cũng như bệnh viêm gan A, đa số bệnh nhân không cần chữa, bệnh tự nhiên từ từ giảm dần và biến mất. Chỉ trong một số trường hợp hiếm hoi hơn, gan bị tàn phá một cách rất nhanh chóng và bệnh nhân có thể lìa trần nếu không được ghép gan.

CÁCH ÐỊNH BỆNH VIÊM GAN E

Thử máu vẫn là phương pháp độc nhất để định bệnh viêm gan E. Tuy nhiên, vì đây là một căn bệnh tương đối mới, nên nhiều người không nghĩ đến. Trong lúc bệnh đang hoành hành, kháng thể HEV-IgM có thể sẽ tăng cao. Như đã trình bầy trong bài bệnh viêm gan B, kháng thể IgM tượng trưng cho bệnh viêm gan cấp tính vừa mới bị lây. IgG là kháng thể khi cơ thể đã tiếp xúc với vi khuẩn trong quá khứ xa xôi. 

Người có kháng thể HEV-IgG sẽ được miễn nhiễm và không sợ bị lây bệnh viêm gan E nữa. Tuy nhiên vì các bạch huyết cầu có khuynh hướng "chóng quên", nên sau một thời gian từ 5 đến 10 năm, kháng thể HEV-IgG sẽ từ từ giảm dần và không còn "đủ sức" bảo vệ cơ thể trước sự xâm lấn của vi khuẩn viêm gan E nữa.

Tiếc thay, thử kháng thể HEV-IgM là một phương pháp thử máu cầu kỳ, nên ngay cả trên Hoa Kỳ, chỉ một số phòng thử máu đặc biệt mới trang hoàn đầy đủ máy móc để chạy những cuộc thử máu kể trên. Vì thế, một số lớn bệnh nhân viêm gan E cấp tính thường bị hiểu lầm là đã bị viêm gan cấp tính một cách "khó hiểu" và "không nguyên cớ".  

Sau đây là lược đồ chỉ số kháng thể và kháng nguyên được tìm thấy trong máu, trong phân cũng như trong tế bào gan, sau khi vi khuẩn viêm gan E xâm nhập vào cơ thể chúng ta.

            
Hoạ đồ này cho thấy, vi khuẩn viêm gan E vẫn tiếp tục xuất hiện trong phân 3 đến 8 tuần lễ sau khi triệu chứng của bệnh viêm gan E cấp tính bộc phát. Vì thế, bệnh vẫn tiếp tục lây cho người khác một đến 2 tháng sau khi gan bị viêm cấp tính. Một khi lành bệnh, cơ thể chúng ta sẽ có kháng thể chống lại vi khuẩn viêm gan E trong một thời gian lâu dài. Hóa chất ALT tăng cao đánh dấu viêm gan cấp tính.

PHÒNG BỆNH VIÊM GAN E

Cho tới nay, người ta vẫn chưa khám phá ra thuốc chích ngừa bệnh viêm gan E. Vì thế, vấn đề vệ sinh thành phố, nhất là khả năng cung cấp một nguồn nước uống trong sạch, cũng như cải thiện cầu cống và hệ thống canh nông (không dùng phân người trong việc trồng trọt) là một trong những phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chặn sự bành trướng của căn bệnh đáng ngại này.

Tại một số thôn quê Việt Nam, nhà vệ sinh và phòng tắm cũng như nguồn nước uống "hòa đồng" với nhau một cách rất "thiên nhiên". Vì thế cả hai bệnh viêm gan A và viêm gan E cũng như một số bệnh sán lải vẫn tiếp lan tràn khắp nơi. Khi du lịch về những vùng nhiệt đới, quý vị chỉ nên uống nước đóng trong chai hoặc lon để lạnh. Tránh uống với đá lạnh làm từ những vòi nước chưa được khử trùng. Tránh ăn các loại sò hến, tôm cua không được nấu kỹ, các loại rau sống cũng như trái cây không bóc vỏ. 

Thông thường, quý vị chỉ cần đun sôi thức ăn, nước uống trong vòng một phút là có thể tiêu hủy vi khuẩn viêm gan E một cách dễ dàng. Hy vọng trong một tương lai gần đây, người ta sẽ khám phá ra thuốc chích ngừa viêm gan E.

CÁCH THỨC CHỮA TRỊ

Thông thường bệnh chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn, và bệnh không cần chữa tự nhiên cũng hết. Các triệu chứng của bệnh có thể được chữa trị tùy theo tình trạng của mỗi bệnh nhân, như đã trình bầy một cách kỹ lưỡng trong chương Bệnh Viêm Gan A. Tuy nhiên nếu bệnh trở nên ác tính, ghép gan là phương pháp độc nhất để có thể cứu được mạng sống của bệnh nhân.

Tóm lại, vi khuẩn viêm gan E đã trở thành nguyên nhân thường xuyên nhất đưa đến những dịch vàng da, viêm gan lây qua thức ăn và nước uống tại những vùng nhiệt đới. Tuy bệnh khó lây hơn bệnh viêm gan A, không gây ra viêm gan cấp tính như viêm gan B, C và D, bệnh có thể trở thành ác tính, nhất là nếu bệnh nhân đang mang thai.

Không có nhận xét nào: