1.1. Đường lây: HGV được lây lan qua đưòng tiêm và đã được phát hiện trong những bệnh gan cấp và mạn tính. Tuy nhiên vai trò xác thực của loại virus này trong căn nguyên của bệnh gan còn được tranh luận.
Sự phổ cập của nhiều sô' liệu dịch tễ học hơn nữa của các khu vực khác nhau của hành tinh sẽ giúp cho việc xác định vai trò của HGV trong những bệnh khác nhau của gan. Hiện còn cần xác định dịch tễ học phân tử của virus nàỵ từ nhiều nước đặc biệt trên những bệnh nhi Thạlassemie được truyền máu nhiềụ lần.
Ở ấn Độ HGV-RNA được phầt hiện ở 37,9% trẻ em mắc bệnh Thalassemie được truyền máu nhiều lần. Trong khi đó tỷ lệ huyết thanh HBV(+)cíiỉ là 233%; cũà HCV 17,1%, nhiêm phối hợp hai thứ 11,4%. Ngiền cứu khúc nủclebtid của 11 phân lập Ấn Độ cho thấy 81,3 1 94,5% tương tự các phân lập từ các nới khắc trên thế giới [3}j%{
1.2. HGV và truyền máu: Viềm gan sau truyền máu hiện đã giảm rõ rệt sau khi áp dụng những kỹ thuật mới vào khám tuyển máu phát hiện HBV và HCV một cách hệ thốhg. Viêm gan sau truyền máu chỉ còn một tỷ lệ nhỏ khoảng 0, 1 0,2%, song làm cho ngưòi ta nghĩ là còn có một căn nguyên virus khác và đã được gọi là nhóm không A không HI
HGV-RNA dương tính ỗ những người cho máu tại Mỹ và Anh là 1 7%. Chúng hiếm khi tìm thấy trong huyết thanh những bệnh nhân mắc viêm gan không A1 không E tản phát, song tìm thấy 33% bệnh hhân viêm gan cấp và mạn không A không E là những người trưốc đó được truyền máu.
Tần suất cao của sự nhiễm này cũng gặp ở những bệnh nhân có nhận máu hoặc những sản phẩm máu nhiều, lần gồm những người bệnh Hemophilie và Thalassemie [7] Tần suất dương tính tồn tại HGV-RNA trong những nhóm này khoảng 18%.
Tần suất cào của HGV-RNA ở những bệnh nhân phơi rứxiễm máu sau này lại được khẳng định khi quan sát thấy 33% những ngưòi nghiện chích bị dương tính.
Bằng cách phân tích các mẫu huyết thanh trước và sau truyền máu ngưòi ta đã khẳng định tính lây truyền sau truyền máu và sự hiện diệri của HGV có liên quân tới:
• Những bằng chứng viêm gan thể hiện bằng lâm sàng, giải phẫu bệnh hoe và hoá sinh,
• Sự đáp ứng với ỉnterferon ở những bệnh nhân và ngưòí cho máu HCV-RNA đương tính, ALT trồ về bính thưòng và HCV-RNA [5] trồ thành âm tính.
1.3. HGV hay đồng nhiễm vối HCV: HGV đồng nhiễm với HCV gây viêm gạn cấp và man.
HGV và HCV chia sẻ cách lây nhiễm là đường máu. HGV hình như không tham gia gây mức bệnh nặng cửa nhiễm HCV, song có thể làm cho HCV kém đập ứng với interferon.
Có ít bằng chứng chứng minh HGV và HCV giao thoa với nhau trong chu trình sinh sản, quá trình mạn tính hoá và khỏi bệnh diễn ra độc lập với nhau. HGV không đòi hỏi chức năng giúp đõ của HCV để sinh sản.
Mức HGV và HCV máu là tương tự trong nhiễm đơn và nhiễm kép. Liệu có phải HGV và HCV sinh sản trong cùng một tế bào? Còn cần phải nghiên cứu tiếp [8].
HGV-RNA thấy ỏ huyết thanh của 27,2% bệnh nhân Thalassemie HCV(+). và ồ 22,2% ọgười cho máu cộ HCV(+). HGV-RNA không tìm thấy ở 200 hgười cho máu mà HBV và HCV(-). Ngoài ra HCV-RNA thấy ở huyết thanh giai đoạn cấp củả 30% bệnh nhân Thalassemiẹ có HGV-RNA dương tinh co chức năng gan bình thường.
1.4. Nhiễm GBV-C và nhiễm HIV: GBV-C-RNA tìm thấy ở 33% bệnh nhân nhiễm HIV; 41% nhiễm HCV chứng tỏ GBV-C được lây theo cùng một đường nhiễm vối các chủng trên [6] .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét