Virus và vi khuẩn đều là những nguyên nhân gây bệnh chủ yếu khi hệ miễn dịch của con người bị suy yếu. Chúng ta nên biết rõ sự khác nhau giữa virus và vi khuẩn để có cách phòng và điều trị bệnh hợp lý khi bị bệnh do vi khuẩn hoặc virus gây ra.
1. Virus (Vi rút) là gì?
Vi rút là những sinh vật nhỏ li ti, muốn nhìn thấy chúng phải nhờ kính hiển vi điện tử. Vi rút lớn lên và phát triển chỉ khi chúng sống trong tế bào sống. Sống ngoài tế bào sống, vi rút sẽ tự hủy diệt, không thể phát triển, trừ khi chúng sống trong tế bào động vật, thực vật hay vi khuẩn. Vi rút gây bệnh cho người và vật do thở hay nuốt vào, đột nhập vào lỗ hổng trên da.
Virus bao gồm vật liệu di truyền (DNA hoặc RNA) bao quanh bởi một lớp phủ bảo vệ của protein. Có khả năng bám vào các tế bào và nhận được bên trong chúng.Virus có thể xâm nhiễm vào tất cả các dạng sinh vật, từ động vật, thực vật cho tới vi khuẩn và vi khuẩn cổ. Virus được tìm thấy ở hầu hết mọi hệ sinh thái trên Trái Đất và là dạng có số lượng nhiều nhất trong tất cả các thực thể sinh học. Một virus có kích thước trung bình vào khoảng 1/100 kích cỡ trung bình của một vi khuẩn.
– Dựa vào cấu tạo: Virut do sự kết hợp giữa các đại phân tử protêin và axit nuclêic, nằm giữa ranh giới của vật thể sống và không sống.
– Dựa vào lối sống kí sinh bắt buộc: Virut bắt nguồn từ một loại vi sinh vật sống kí sinh thoái hóa dần các cơ quan không cần thiết.
– Dựa vào cách nhân lên: Virut có thể là một đoạn gen hay một bào quan nào đó đã tách ra hoạt động độc lập. khi kí sinh lại, chúng có thể nhân lên hay xen cài vào nhiễm sắc thể của tế bào.– Theo thuyết tiến hóa: Từ các chất vô cơ dưới tác dụng của nhiệt độ cao, áp suất lớn, và những thời kì địa chất lâu dài, khí hậu biến đổi, các chất hữu cơ hình thành từ đơn giản đến phức tạp (CH4,CO2,NH3 —> các nucleotic —> chuỗi nu —> axít amin —> protein —> các dạng sống) dấu mốc quan trọng là sự hình thành các hạt côa-xéc-va có màn bán thấm, có khả năng trao đổi chất với môi trường và có khả năng sinh sản. Đây là một dạng sống khá giống với virút. Dần dần hoàn thiện, 1 phần là những con vi rút thời nay, phần còn lại tiến hóa thành những dạng phức tạp hơn.
2. Vi khuẩn là gì?
Vi khuẩn thuộc loại đơn bào, có ở khắp mọi nơi, chỉ một giọt sữa chua là có thể chứa 100 triệu vi khuẩn. Hầu hết các vi khuẩn sinh sản bằng cách phân bào ( một tế bào tách làm đôi ). Vi khuẩn giữ vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hóa của người và vật, giúp hóa mùn cây cối và súc vật chết, giúp cho tiến trình lên men hiệu quả.Có khoảng 40 triệu tế bào vi khuẩn trong một gram đất và hàng triệu tế bào trong một mm nước ngọt. Ước tính có khoảng 5×1030 vi khuẩn trên Trái Đất, tạo thành một lượng sinh khối vượt hơn tất cả động vật và thực vật. Vi khuẩn có vai trò quan trọng trong tái chế chất dinh dưỡng như cố định nitơ từ khí quyển và gây thối rữa sinh vật khác.
Trong vùng dinh dưỡng quanh cách mạch nhiệt dịch và lỗ phun lạnh, vi khuẩn cung cấp những chất dinh dưỡng cần thiết cho sự sống bằng cách biến đổi các hợp chất hòa tan như hydro sulphua và metan thành năng lượng, chúng có thể phát triển mạnh ở nơi sâu nhất trên Trái Đất là rãnh Mariana. Các nghiên cứu khác liên quan cũng chỉ ra rằng chúng có thể sống bên trong các đá ở độ sâu 1900 feet bên dưới đáy biển và cách ngoài khơi bờ biển tây bắc Hoa Kỳ.
3. Sự khác nhau giữa vi khuẩn và virus:
(Chú thích: dấu + là Có, dấu – là Không)
* Vi khuẩn gây viêm nhiễm nhưng diệt được:
Vi khuẩn còn được gọi là vi trùng, chúng hiện diện khắp nơi trong đất, nước và ở dạng cộng sinh với các sinh vật khác. Một số là tác nhân gây bệnh và gây ra bệnh uốn ván, thương hàn, giang mai, tả, bệnh lây qua thực phẩm và lao. Một số nhiễm khuẩn có thể lan rộng ra khắp cơ thể và trở thành bệnh toàn thân. Bệnh do vi khuẩn lây nhiễm qua tiếp xúc, không khí, thực phẩm, nước và côn trùng.Vi khuẩn gây viêm nhiễm nhưng diệt được mầm bệnh, bệnh do bị nhiễm khuẩn có thể trị bằng thuốc kháng sinh, được chia làm hai nhóm là diệt khuẩn (bacteriocide) và kìm khuẩn (bacteriostasis), với liều lượng mà khi phân tán vào dịch cơ thể có thể tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn.
* Kháng sinh vô tác dụng với vi rút:
Vi rút chỉ có thể sống và phát triển được khi xâm nhập vào bên trong tế bào của sinh vật khác (người, động vật và cây cỏ) và khi ra khỏi ký chủ, vào môi trường ngoài (nước, không khí…) chúng sẽ không sống được lâu.
Ngày nay, khoa học đã phát hiện có khoảng 2.000 loài vi rút khác nhau, trong đó có khoảng 300 loài có khả năng gây bệnh cho người như AIDS, viêm gan B và C, sốt xuất huyết, bại liệt, bệnh dại, đậu mùa, cúm…Khác với vi khuẩn, vi rút đánh vào hệ miễn dịch của cơ thể nên điều trị bằng kháng sinh không có tác dụng mà chỉ có thể chống lại bằng cách tiêm vắc xin. Riêng các loại vi rút gây cúm, vì chúng biến chủng rất nhanh nên vắc – xin chế từ vi rút năm này lại không hữu hiệu với cùng vi rút ấy cho năm tới. Vì thế các loại vắc xin hiện có không ngừa được virus cúm A (H1N1).
Khi thời tiết chuyển mùa hay trở lạnh sẽ là điều kiện thuận lợi để vi rút gây bệnh.
4. Tại sao kháng sinh không điều trị được bệnh do virut?
Năm 1928, tại Bệnh viện Saint Mary (London), Alexander Plemming phát hiện ra chất kháng sinh diệt khuẩn và đặt tên là penicillin. Loại kháng sinh này được tìm ra từ nấm Penicillium notatum. Sau đó có rất nhiều nhà nghiên cứu về kháng sinh penicillin và đến năm 1943, dự án sản xuất penicillin được Chính phủ Mỹ chấp nhận và từ đây kháng sinh penicillin chính thức ra đời, cứu sống được vô vàn người mắc bệnh nhiễm khuẩn.
Từ penicillin, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm tòi ra vô vàn các loại kháng sinh khác nhau và đã xếp chúng thành nhiều nhóm dựa vào cấu tạo và cơ chế tác dụng đối với vi khuẩn.- Kháng sinh đối với virut thì như thế nào?
Do cấu tạo virut hoàn toàn khác biệt với tế bào vi khuẩn và nó không phải là một tế bào hoàn chỉnh bởi cấu tạo đơn giản hơn rất nhiều so với tế bào vi khuẩn chỉ là bộ gen (hoặc DNA hoặc RNA) bao quanh là lớp vỏ protein chứa nhiều kháng nguyên, vì vậy được gọi là “phi tế bào”.
Do cấu tạo đặc biệt đó nên bắt buộc virut phải sống ký sinh bên trong tế bào túc chủ mà nó xâm nhiễm, bởi vì virut không có hệ thống enzym hoàn chỉnh nên không thể tự tạo ra năng lượng cho mình hoặc tự sinh sôi nảy nở được. Do đó, để tồn tại và phát triển thì virut phải xâm nhập vào trong các tế bào khác (tế bào túc chủ) và “gửi” các vật liệu di truyền của mình.
Khi vào cơ thể, áo protein bị loại bỏ, chỉ hoạt động bởi ARN hoặc ADN của nó, không có cách gì để nhận biết. Hơn nữa, kháng sinh diệt được vi khuẩn vì vi khuẩn ký sinh ngoài tế bào nên kháng sinh có thể diệt nguyên vi khuẩn, còn virut nằm trong vật chất di truyền của tế bào túc chủ cho nên nếu kháng sinh diệt virut thì đồng nghĩa với diệt cả tế bào của túc chủ (người hoặc động vật).
Vì vậy, nếu thuốc kháng sinh muốn tấn công virut sẽ phải biết chọn lọc không tấn công vào các bộ phận “tầm gửi” này (tức là không tấn công vào tế bào túc chủ) và đây thực sự là cản trở cực lớn. Hơn thế nữa, virut còn có khả năng nằm ẩn mình vài năm trong tế bào trước khi phát bệnh.
Để thay vì dùng kháng sinh không có tác dụng đối với virut, các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công một số thuốc diệt virut dựa trên cơ sở sự hiểu biết về cấu trúc và cơ chế xâm nhiễm, nhân lên trong tế bào túc chủ của virut. Tuy vậy, virut luôn thay đổi hình dạng và do đó luôn có khả năng kháng lại thuốc, đó là những điều bất lợi cho việc dùng thuốc tiêu diệt chúng.
5. Virus và vi khuẩn lây lan như thế nào?
– Một người bị lạnh có thể lây nhiễm vi khuẩn/virus bằng cách ho hoặc hắt hơi.
– Vi khuẩn hoặc virus có thể được lây lan bằng cách chạm hoặc bắt tay với người khác.
– Chạm vào thức ăn với bàn tay bẩn cũng sẽ cho phép virus hoặc vi khuẩn từ ngoài lây lan tới ruột.
– Lây qua dịch cơ thể: như máu, nước bọt và tinh dịch, có thể chứa các vi sinh vật, ví dụ bằng cách tiêm hoặc quan hệ tình dục (đặc biệt là các bệnh nhiễm trùng do virus như viêm gan hoặc AIDS).– Virus lây lan theo nhiều cách; virus thực vật thường được truyền từ cây này sang cây khác qua những loài côn trùng hút nhựa cây như rệp vừng; trong khi virus động vật lại có thể được truyền đi nhờ những côn trùng hút máu. Những sinh vật mang mầm bệnh như vậy được gọi là những vector.
Virus cúm lan truyền thông qua ho và hắt hơi. Norovirus và rotavirus, nguyên nhân chính của bệnh viêm dạ dày-ruột siêu vi, lây lan qua đường phân-miệng và truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc, cũng như xâm nhập vào cơ thể qua thức ăn hay nước uống.
HIV là một trong vài loại virus lây nhiễm thông qua quan hệ tình dục và tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh. Mỗi virus chỉ có thể xâm nhiễm vào một số dạng tế bào vật chủ nhất định, gọi là “biên độ vật chủ” (host range); biên độ này có thể rất hẹp hoặc rất rộng, tùy vào số lượng những sinh vật khác nhau mà virus có khả năng lây nhiễm.Sự xâm nhập của virus trong động vật đã kích hoạt một phản ứng miễn dịch nhằm loại bỏ virus xâm nhiễm. Những phản ứng miễn dịch cũng có thể được tạo ra bởi vắc-xin, giúp tạo ra miễn dịch thu được nhân tạo đối với một virus xâm nhiễm nhất định.
Tuy nhiên, một số virus, bao gồm những loại gây ra AIDS và viêm gan siêu vi, lại có thể trốn tránh những phản ứng trên và gây ra sự nhiễm bệnh mãn tính. Đa phần các chất kháng sinh không có hiệu quả đối với virus, dù vậy cũng đã có những loại thuốc kháng virus được phát triển.
6. Làm thế nào để tránh nhiễm trùng?– Rửa tay thật kỹ (thường là một trong những cách tốt nhất để tránh bị cảm cúm).
– Bắt tay với người bị cảm lạnh là nguy hiểm, do đó, tránh dụi mắt hoặc mũi của bạn sau đó.
– Thức ăn phải được nấu chín hoặc làm lạnh càng nhanh càng tốt.
– Rau và thịt phải được lưu giữ riêng và chuẩn bị trên thớt riêng biệt.
– Khi bị cảm cúm, hoặc hắt hơi, sổ mũi cần chuẩn bị khăn giấy, khăn cá nhân để ngăn chặn đưa virus, vi khuẩn ra ngoài môi trường. Cần luyện thói quen ho vào cánh tay áo (nếu không có khăn giấy) và khạc nhổ vào giấy vệ sinh rồi gói lại cho vào thùng rác.– Một số sinh vật bị giết khi thức ăn được nấu chín, nhưng chúng vẫn có thể để lại các chất độc hại có thể gây ra tiêu chảy và nôn mửa. Hạn chế ăn các thức ăn để qua đêm, vì dù đun sôi, vi khuẩn có thể chết, nhưng độc tố gây bệnh do vi khuẩn tạo ra trong thực phẩm vẫn còn.
– Việc sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục làm giảm khả năng lây lan bệnh qua đường tình dục.
– Giữ phong cách sống và tinh thần tốt để có hệ miễn dịch khỏe mạnh.
7. Một số bệnh do vi rút gây ra và cách phòng bệnh:
Tiêu chảy do vi rút: Bệnh tiêu chảy mùa đông do Rota vi rút gây ra và thường chỉ kéo dài trong 3 – 7 ngày. Khi bị bệnh thường có biểu hiện sốt nhẹ, hơi mệt, nôn, tiêu chảy, ở trẻ em có quấy khóc…
Người bệnh đi ngoài nhiều lần, phân lỏng, màu vàng chanh hoặc trắng lẫn dịch nhầy, có khi như màu hoa cà, hoa cải. Là một bệnh thông thường, nhưng nếu bị tiêu chảy kéo dài dẫn đến mất nước, mất điện giải trầm trọng có thể dẫn tới tử vong nếu không được bù nước, bù điện giải kịp thời. Hiện nay, chưa có trị liệu đặc hiệu đối với vi-rút Rota.Hiện nay đã có vacxin ngừa Rotavirus, 60% nguyên nhân gây tiêu chảy cấp ở trẻ sơ sinh và trẻ em. Bạn nên cho bé đi uống vacxin từ tháng thứ 2 sau sinh.
Người bệnh đi ngoài nhiều lần, phân lỏng, màu vàng chanh hoặc trắng lẫn dịch nhầy, có khi như màu hoa cà, hoa cải. Là một bệnh thông thường, nhưng nếu bị tiêu chảy kéo dài dẫn đến mất nước, mất điện giải trầm trọng có thể dẫn tới tử vong nếu không được bù nước, bù điện giải kịp thời. Hiện nay, chưa có trị liệu đặc hiệu đối với vi-rút Rota.Hiện nay đã có vacxin ngừa Rotavirus, 60% nguyên nhân gây tiêu chảy cấp ở trẻ sơ sinh và trẻ em. Bạn nên cho bé đi uống vacxin từ tháng thứ 2 sau sinh.
Sốt do vi rút: Các triệu chứng sốt vi rút điển hình là ban đầu sốt nhẹ khoảng 38 – 38,5 độ C, sau đó bùng lên sốt cao đến 39 độ C hoặc cao hơn. Nhiều người đau họng, ho hắng nhẹ, đau nhức mình mẩy, vã mồ hôi, mệt mỏi.
Thường sau 5 – 6 ngày, bệnh sẽ tự khỏi. Về điều trị, chỉ cần dùng thuốc hạ sốt khi sốt cao, hoặc dùng các loại thuốc cảm để chữa triệu chứng đau nhức, sổ mũi, ho… Ngoài ra nên súc miệng nước muối và nhỏ mũi thường xuyên. Không nên dùng kháng sinh.Sốt vi rút là bệnh dễ lây, nhất là trong gia đình và công sở, nơi dùng điều hòa không khí. Do đó, người bị sốt vi rút nên hạn chế tiếp xúc với người khác, nhất là trẻ em. Nếu mệt nặng, nên nghỉ làm. Những người xung quanh nên phòng bệnh bằng cách nhỏ nước muối, ăn nhiều hoa quả giàu vitamin C và bảo vệ sức khỏe.
Để cơ thể có sức đề kháng tốt cần ăn uống phong phú, đủ dinh dưỡng, ăn thức ăn dễ tiêu như cháo, súp… ngoài ra nên uống nhiều nước, nước lọc, nước hoa quả…
Thường sau 5 – 6 ngày, bệnh sẽ tự khỏi. Về điều trị, chỉ cần dùng thuốc hạ sốt khi sốt cao, hoặc dùng các loại thuốc cảm để chữa triệu chứng đau nhức, sổ mũi, ho… Ngoài ra nên súc miệng nước muối và nhỏ mũi thường xuyên. Không nên dùng kháng sinh.Sốt vi rút là bệnh dễ lây, nhất là trong gia đình và công sở, nơi dùng điều hòa không khí. Do đó, người bị sốt vi rút nên hạn chế tiếp xúc với người khác, nhất là trẻ em. Nếu mệt nặng, nên nghỉ làm. Những người xung quanh nên phòng bệnh bằng cách nhỏ nước muối, ăn nhiều hoa quả giàu vitamin C và bảo vệ sức khỏe.
Để cơ thể có sức đề kháng tốt cần ăn uống phong phú, đủ dinh dưỡng, ăn thức ăn dễ tiêu như cháo, súp… ngoài ra nên uống nhiều nước, nước lọc, nước hoa quả…
8. Cách phòng ngừa các bệnh do vi khuẩn, virus gây ra:
Bạn cần có một phong cách sống lành mạnh, tinh thần tích cực để giúp hệ miễn dịch khỏe mạnh. Vì khi hệ miễn dịch yếu thì vi khuẩn hoặc virus nào cũng có thể tấn công bạn.
Bạn cần thực hiện 8 điều tốt sau đây nhé:– Ăn tốt: đủ dinh dưỡng, cân bằng, hợp lý, tươi, sạch, an toàn,
Bạn cần thực hiện 8 điều tốt sau đây nhé:– Ăn tốt: đủ dinh dưỡng, cân bằng, hợp lý, tươi, sạch, an toàn,
– Uống đủ nước và đúng cách.
– Ngủ tốt: ngủ đúng giờ, phòng thoáng khí, đông ấm, hè mát, ngủ sâu giấc.
– Tập tốt: Tập thể dục và vận động hàng ngày, để thúc đẩy quá trình trao đổi chất và đào thải độc tố.
– Nghĩ tốt: suy nghĩ tích cực, lạc quan, để có sức khỏe tinh thần tốt.
– Môi trường sống tốt: xanh, sạch, đẹp
– Học tốt: học các kiến thức chăm sóc, bảo vệ và phòng bệnh mỗi ngày.– Làm tốt: Làm tốt công việc của bạn để có tài chính tốt đảm bảo cho bản thân và gia đình.
Nhiễm siêu vi là gì? Khi nào cần nhập viện ?
Giai đoạn chuyển mùa cũng là môi trường thuận lợi cho siêu vi phát triển. Nếu đề kháng của trẻ kém, trẻ sẽ dễ mắc bệnh.
Nhiễm siêu vi là một bệnh cấp tính và lây lan nhanh do siêu vi trùng gây ra, diễn tiến từ 3 đến 7 ngày. Biểu hiện thường gặp nhất ở trẻ là sốt cao đột ngột từ 39 - 40 . Bệnh không có thuốc đặc hiệu mà chỉ chữa triệu chứng cùng với các biện pháp hỗ trợ.
1/ NGUYÊN NHÂN: Do siêu vi gây ra.
Có rất nhiều loại siêu vi, tùy từng loại trẻ nhiễm mà có bệnh khác nhau.
Ví dụ: Siêu vi: Dengue gây bệnh sốt xuất huyết
Siêu vi: Influenjae gây bệnh cảm cúm
Siêu vi: Adenovirus gây viêm mũi họng, cảm lạnh, viêm kết mạc mắt
2/ BIỂU HIỆN:
Siêu vi tác động vào cơ thể làm trẻ sốt cao 39 - 40 độ C và có những biểu hiện khác như:
· Đường hô hấp: trẻ ho, hắt hơi, sổ mũi, họng đỏ
· Đường tiêu hóa: biếng ăn, buồn nôn, nôn, tiêu chảy không máu có thể có nhầy hoặc bón. Bệnh rầm rộ từ 3 đến 5 ngày, sau đó sẽ giảm dần và mất đi, trẻ trở lại khỏe mạnh bình thường.
· Qua da: phát ban, xuất hiện 2 – 3 ngày sau khi sốt. Phát ban toàn thân gây ngứa, đôi khi có chấm xuất huyết nhỏ thường gặp ở mặt trong cánh tay, mặt trong đùi. Khi xuất hiện ban thì trẻ bớt sốt.
· Các nơi khác:
- Hạch to ở vùng đầu, cổ, có thể đau hoặc sờ thấy.
- Đỏ mắt và có ghèn, có cảm giác nóng ở hai hố mắt.
- Đau nhức:
ü Trẻ nhỏ: quấy khóc.
ü Trẻ lớn: than đau khắp thân, đau hai bên thái dương và sau gáy. Trẻ ngại vận động nhưng vẫn tỉnh táo, không kích thích, không vật vã.
Nếu không được khám và điều trị kịp thời bệnh nhi sẽ gặp nhiều nguy hiểm có thể gây tử vong như gặp trong bệnh sốt xuất huyết, viêm phổi do siêu vi cúm, viêm não, viêm cơ tim…
Chú ý: Người lớn ít bị nhiễm siêu vi hơn trẻ con vì lúc nhỏ đã từng mắc bệnh này rồi nên đã có miễn dịch.
3/ ĐIỀU TRỊ:
Không có thuốc đặc hiệu mà chỉ chữa triệu chứng và các biện pháp hỗ trợ. Thường áp dụng các cách sau:
· Hạ sốt:
- Dùng Paracetamol liều 10mg/kg mỗi 4 – 6 giờ để tránh sốt cao co giật (Không dùng Aspirin vì có thể gây nguy hiểm).
- Chườm mát: lau người cho trẻ bằng khăn mát, lau khô mồ hôi, nằm nơi thoáng mát, mặc quần áo mỏng.
· Bù nước
- Khi sốt cao có thể gây mất nước, gây rối loạn điện giải cơ thể. Do đó nên cho trẻ uống nhiều nước chín và bù điện giải bằng cách uống Oresol (một gói Oresol pha một lít nước uống dần trong ngày).
· Chống bội nhiễm
- Vệ sinh sạch sẽ cho bé, tắm bằng nước ấm, phòng kín. Nhỏ mắt, nhỏ mũi bằng Natrichlorua 0,9% để tránh bội nhiễm vi khuẩn đường hô hấp.
- Cách ly trẻ không cho đến trường (vì bệnh có thể gây thành dịch).
- Giữ ấm cho trẻ.
· Dinh dưỡng:
- Cho trẻ ăn lỏng, dễ tiêu, giàu dinh dưỡng.
4/ LỜI KHUYÊN:
· Các loại kháng sinh không phải là biện pháp loại trừ nguyên nhân gây bệnh.
· Cần đưa trẻ đến khám tại các trung tâm y tế khi có một trong các dấu hiệu sau đây để được điều trị kịp thời, tránh hậu quả nặng nề.
- Trẻ sốt cao khó hạ, sốt cao co giật
- Trẻ lơ mơ, ngủ nhiều li bì, khó đánh thức
- Nôn ói nhiều, không ăn uống được
- Tiêu ra máu
- Thở mệt, tím tái
- Xuất hiện những chấm xuất huyết ở da
- Bệnh nặng hơn
5/ PHÒNG NGỪA:
Một vài cách để tránh cho trẻ ít bị nhiễm siêu vi:
· Không cho trẻ tiếp xúc với người đang bệnh
· Giữ ấm cho trẻ
· Không cho trẻ dầm mưa hay chơi ngoài nắng hay đi bơi quá nhiều
· Đảm bảo:
- Vệ sinh ăn uống
- Môi trường sống thoáng mát, sạch sẽ
· Chích ngừa: cúm, viêm não, thủy đậu, sởi
Trẻ đang bệnh nhiễm siêu vi, các bậc cha mẹ không nên quá lo lắng hoặc quá chủ quan mà phải chăm sóc trẻ chu đáo, nhận biết các dấu hiệu nặng để đưa trẻ đến trung tâm y tế khám và chữa bệnh kịp thời.
(BS.Đặng Thị Kim Trinh - Khoa DV2)
ĐƯỜNG LÂY TRUYỀN VIÊM GAN SIÊU VI.
(PGS.TS. BS Bùi Hữu Hoàng
Trưởng Phân khoa Tiêu Hóa-Gan Mật, Bệnh viện Đại Học Y Dược TP HCM
Phó Chủ tịch Hội Gan Mật TP HCM)
Viêm gan siêu vi là bệnh viêm gan do nhiều loại siêu vi trùng (virus) khác nhau gây ra. Hiện nay, người ta đã biết có đến 6 loại siêu vi gây viêm gan và được đặt tên lần lượt là siêu vi A, B, C, D, E, G. Hầu hết các siêu vi trên đều gây viêm gan cấp tính nhưng viêm gan do siêu vi A và E thường tự khỏi, còn siêu vi B, C, D có thể diễn tiến kéo dài thành viêm gan mạn tính, rồi dẫn đến xơ gan hoặc ung thư gan.
Ngoài ra, một số loại siêu vi khác cũng có thể gây viêm gan, ví dụ như Cytomegalovirus (CMV), siêu vi Herpes, siêu vi Epstein-Barr... nhưng ảnh hưởng của các loại siêu vi này đối với gan thường không nghiêm trọng và ít gặp nên ít được nhắc đến.
Con đường lây truyền của siêu vi viêm gan rất đa dạng nhưng chủ yếu tập trung vào hai nhóm chính: Nhóm các siêu vi viêm gan lây qua đường ăn uống và nhóm còn lại không lây qua đường tiêu hóa.
Bệnh viêm gan siêu vi lây qua đường ăn uống: bao gồm siệu vi viêm gan A và E
Siêu vi viêm gan A chủ yếu lây lan qua đường miệng do những đồ ăn thức uống bị nhiễm siêu vi A. Siêu vi A tồn tại trong đường ruột, thải ra ngoài qua phân người bệnh. Thức ăn, nước uống, vật dụng, hoặc tay người tiếp xúc với siêu vi A sẽ trở thành nguồn lây nhiễm siêu vi A.
Siêu vi viêm gan E cũng là loại siêu vi lây qua đường tiêu hóa nhưng chủ yếu là do các nguồn nước bị nhiễm siêu vi E.
Bệnh viêm gan siêu vi không lây qua đường tiêu hóa: bao gồm nhiều phương cách lây truyền khác nhau.
Siêu vi viêm gan B:
Ở Việt Nam, đường lây truyền chủ yếu của bệnh là từ mẹ bị nhiễm siêu vi B lây sang cho con trong lúc sinh và lây truyền giữa các trẻ em với nhau.
Các con đường khác cũng làm lây lan bệnh như: truyền máu, quan hệ tình dục (mà không dùng bao cao su) với người bị nhiễm siêu vi viêm gan B, dùng chung những vật dụng có thể dính máu như kim chích, kim châm cứu, kim xăm mình, bàn chải đánh răng, dao cạo râu ... với người bị nhiễm siêu vi B.
Một số trường hợp, bệnh nhân có thể bị lây bệnh khi đi chữa răng, nội soi, hoặc được làm những thủ thuật mà dụng cụ không bảo đảm vô trùng.
Siêu vi viêm gan C:
Siêu vi viêm gan C được lây truyền chủ yếu qua đường máu. Do vậy, bất cứ lí do gì mà chúng ta tiếp xúc với máu của những người bị nhiễm siêu vi C thì đều có khả năng mắc bệnh này.
Cách đây hơn 20 năm, những trường hợp nhiễm bệnh do truyền máu chiếm 10% nhưng hiện nay, nhờ có các biện pháp sàng lọc tốt ở những người cho máu nên nguy cơ lây nhiễm sau truyền máu đã giảm đi đáng kể. Đường lây truyền khá quan trọng hiện nay là qua việc dùng chung kim và ống chích, thường gặp ở những người tiêm chích ma túy.
Ngoài ra, bệnh còn có thể lây nhiễm qua da-niêm mạc như sử dụng chung kim châm cứu, xăm mình, xỏ lỗ tai, dùng chung bàn chải đánh răng, dao cạo râu, ... với người nhiễm virus viêm gan C. Bên cạnh đó, vấn đề lây nhiễm trong bệnh viện cũng đáng được quan tâm, do phẫu thuật hoặc các thủ thuật như nội soi, sinh thiết, chữa răng mà dụng cụ không đảm bảo tiệt trùng đầy đủ.
Những phương cách lây truyền khác như qua tiếp xúc tình dục hoặc do mẹ truyền sang cho con thì ít xảy ra hơn so với viêm gan siêu vi B.
Siêu vi viêm gan D là loại siêu vi chỉ được phát hiện ở những bệnh nhân đã bị nhiễm siêu vi viêm gan B trước đó vì siêu vi D phải cần lớp vỏ bọc của siêu vi B mới có thể tồn tại và gây bệnh.
Do vậy, cách lây truyền siêu vi viêm gan D cũng tương tự như của siêu vi viêm gan B. Ở Việt Nam, tỉ lệ bệnh nhân nhiễm siêu vi viêm gan D rất thấp, do vậy người ta ít quan tâm đến việc tầm soát siêu vi D.
Hiểu biết các phương cách lây truyền bệnh viêm gan siêu vi sẽ giúp ích cho việc phòng ngừa bệnh.
Đối với các bệnh lây qua đường ăn uống như viêm gan siêu vi A và E, biện pháp phòng ngừa chủ yếu là thực hiện tốt vấn đề vệ sinh ăn uống bao gồm: rửa tay sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, ăn sạch uống sôi, vệ sinh từ khâu chế biến thực phẩm, và cũng cần chọn lựa những nơi ăn uống bên ngoài đảm bảo vệ sinh.
Đối với bệnh viêm gan siêu vi B, C, D…, cách phòng ngừa nói chung là tránh tiếp xúc với máu và các loại dịch từ cơ thể người bệnh, không sử dụng chung kim tiêm, các vật dụng cá nhân có thể gây trầy sướt da-niêm như bàn chải đánh răng, dao cạo râu, kềm cắt móng tay…
Nên sử dụng bao cao su để phòng tránh việc lây lan qua đường tình dục. Hiện nay, chỉ có viêm gan siêu vi A và B có thuốc vắc-xin chủng ngừa. Các vắc-xin này tương đối an toàn và rất hiệu quả.
Phòng bệnh tốt hơn chữa bệnh – đây là thông điệp chúng tôi muốn gửi tới quý độc giả nhằm hạn chế bệnh viêm gan do siêu vi ở nước ta trong tương lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét